Điều trị hàng ngày trên bệnh nhân bệnh thận IgA bằng glucocorticoid đường uống, methylprednisolone, giảm đáng kể tỷ lệ suy thận và tổng hợp các kết quả tác dụng phụ của thận trong 1 thử nghiệm ngẫu nhiên đa trung tâm với hơn 500 bệnh nhân, có đối chứng nghiên cứu được báo cáo.
Các kết quả chứng minh rõ ràng steroid đường uống có vai trò trong việc ngăn ngừa suy thận ở những bệnh nhân đăng ký. Những phát hiện này cung cấp bằng chứng rất mạnh mẽ của lợi ích methylprednisolone đường uống sẽ thay đổi hướng dẫn và thay đổi thực hành, theo Tiến sĩ Vlado Perkovic, MBBS báo cáo kết quả tại Tuần lễ Thận trực tuyến 2021.
Hai liều lượng khác nhau được nghiên cứu trong thử nghiệm:
Trong thử nghiệm TESTING, bắt đầu vào năm 2012, 262 bệnh nhân nhận được immunoglobulin (Ig) A cộng với liều methylprednisolone đường uống đầy đủ là 0,6-0,8 mg / kg / ngày hoặc giả dược, tối đa 48 mg / ngày của steroid, trong 2 tháng, sau đó giảm dần 8 mg / ngày / tháng trong tổng thời gian điều trị là 6-9 tháng. Vào cuối năm 2015, ủy ban giám sát an toàn rút thử nghiệm khỏi phác đồ vì quá nhiều tác dụng phụ nghiêm trọng, chủ yếu là nhiễm trùng.
Một báo cáo tạm thời từ TESTING với kết quả từ 262 bệnh nhân đầu tiên được báo cáo trên JAMA vào năm 2016. Các nhà điều tra nêu lên vào thời điểm đó, việc dừng nhập học sớm không thể đưa đến kết luận dứt khoát trong hiệu quả.
TESTING tiếp tục với chế độ giảm liều methylprednisolone bắt đầu bệnh nhân 0,4 mg / kg / ngày, tối đa 24-32 mg / ngày, sau đó giảm dần 4 mg / ngày / tháng. Các biện pháp an toàn khác gồm điều trị thường quy tất cả bệnh nhân bằng kháng sinh dự phòng chống lại bệnh viêm phổi do viêm phổi và tăng mức độ chức năng thận cần thiết ở những bệnh nhân được ghi danh từ mức tối thiểu ban đầu của mức lọc cầu thận ước tính (eGFR) là 20 mL / phút / 1,73m2 đến eGFR là 30 mL / phút / 1,73m2.
Với 241 bệnh nhân khác đăng ký và nhận được phác đồ điều chỉnh. Một phân tích sơ cấp cuối cùng gồm tất cả 503 bệnh nhân từ cả 2 giai đoạn nghiên cứu.
Trong thời gian theo dõi trung bình tổng thể là 4,2 năm, điều trị bằng methylprednisolone cắt giảm 47% điểm kết thúc tổng hợp chính so với giả dược. Điểm cuối gồm suy thận do sự cố, tử vong do nguyên nhân thận hoặc giảm ít nhất 40% eGFR so với ban đầu.
Điều trị bằng steroid cũng làm giảm tỷ lệ suy thận đáng kể 41% so với giả dược trong phân tích đầy đủ.
Hai liều có hiệu quả tương tự, độ an toàn khác nhau
Kết quả hiệu quả trong mỗi giai đoạn trong 2 giai đoạn của nghiên cứu. Trong giai đoạn dùng liều cao, bệnh nhân dùng methylprednisolone giảm đáng kể 42% tiêu chí chính so với nhóm chứng trong thời gian theo dõi trung bình 5,7 năm. Trong giai đoạn liều thấp, bệnh nhân sử dụng corticosteroid giảm đáng kể 73% điểm tương đối so với nhóm chứng trong thời gian theo dõi trung bình 2,5 năm.
Không có sự khác biệt đáng kể kết quả chính giữa 2 giai đoạn nghiên cứu.
Báo cáo mới cũng ghi nhận sự tương phản của độ an toàn giữa liều đầy đủ ban đầu và liều giảm thay thế cộng với các biện pháp khác được thực hiện giảm tác dụng phụ.
Nhìn chung, 28 bệnh nhân sử dụng methylprednisolone có tổng cộng 37 tác dụng phụ nghiêm trọng so với 7 bệnh nhân với 8 biến cố trong nhóm chứng. Có 30 trong số các tác dụng phụ nghiêm trọng do methylprednisolone gặp ở 22 bệnh nhân ở chế độ đủ liều, trong khi chỉ 6 bệnh nhân ở chế độ liều thấp hơn có tổng cộng 7 tác dụng phụ nghiêm trọng.
Số lượng cần thiết trong điều trị bằng Methylprednisolone liều thấp:
TESTING tiến hành tại 66 địa điểm ở Úc, Canada và Trung Quốc, và khoảng 3/4 bệnh nhân đăng ký ở Trung Quốc. Tiêu chuẩn chính ghi nhận là bệnh thận IgA được chứng minh bằng sinh thiết, protein niệu hàng ngày trên 1 g và ít nhất 3 tháng theo chế độ hỗ trợ ổn định gồm liều thuốc chẹn hệ thống renin-angiotensin dung nạp tối đa.
Bệnh nhân ở độ tuổi trung bình là 38 và 61% là nam giới. EGFR trung bình lúc mới vào khoảng 62 mL / phút / 1,73m2, và protein niệu trung bình khoảng 2,4 g / ngày. Các phân tích thấy không có sự không đồng nhất liên quan đến việc bệnh nhân được điều trị ở Trung Quốc hay nơi khác, cũng không có sự không đồng nhất liên quan đến bất kỳ biến phân tích khác gồm tuổi và mức độ nghiêm trọng của protein niệu tại thời điểm ban đầu.
Bản cập nhật năm 2021 đối với Hướng dẫn thực hành lâm sàng KDIGO, quản lý bệnh cầu thận nêu rõ trọng tâm chính của việc quản lý bệnh thận IgA phải là chăm sóc hỗ trợ được tối ưu hóa, gồm cả việc phong tỏa hệ thống renin-angiotensin càng nhiều càng tốt, kiểm soát huyết áp, giảm thiểu nguy cơ tim mạch và tuân thủ lời khuyên lối sống, gồm tư vấn chế độ ăn uống, cai thuốc lá, kiểm soát cân nặng và tập thể dục.
Bản cập nhật năm 2021 cũng nêu lên nếu protein niệu duy trì trên 0,75-1 g / ngày mặc dù ít nhất 90 ngày được chăm sóc hỗ trợ tối ưu, bệnh nhân có nguy cơ cao mất dần chức năng thận và có thể được xem xét điều trị 6 tháng liệu pháp glucocorticoid (Hạng 2B), hoặc tốt hơn là cơ hội tham gia thử nghiệm lâm sàng trị liệu.
Sử dụng glucocorticoid trong bệnh thận IgA nên hết sức thận trọng hoặc tránh hoàn toàn ở những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ gồm tiểu đường, béo phì hoặc eGFR dưới 30 mL / phút / 1,73m2, hướng dẫn nêu rõ hơn.
Tên bài:
‘Strong Evidence’ Oral Steroids Slow IgA Nephropathy Progression
Mitchel L. Zoler, PhD
November 10, 2021
https://www.medscape.com/viewarticle/962639.