Theo các nhà nghiên cứu từ Mayo Clinic, Rochester, Minn, đo độ cứng của gan bằng phương pháp đo độ đàn hồi trên cộng hưởng từ (MRE) có thể dự đoán nguy cơ xơ gan trong tương lai đối với ở những bệnh nhân có bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD).
Những số liệu này mở rộng vai trò của MRE từ 1 phương pháp chẩn đoán chính xác thành 1 dấu ấn sinh học hình ảnh không xâm lấn tiên lượng có thể phân tầng nguy cơ bệnh nhân NAFLD và hướng dẫn thời gian theo dõi và cải thiện hơn nữa việc quản lý lâm sàng, theo Tolga Gidener, MD cùng các đồng nghiệp viết.
Các tác giả nghiên cứu nói thêm nghiên cứu mở rộng hơn nữa vai trò của MRE ngoài ước tính xơ hóa gan bằng cách thêm 1 tính năng dự đoán cải thiện việc theo dõi bệnh cá nhân và tư vấn bệnh nhân. Nghiên cứu được báo cáo trên Tạp chí Clinical Gastroenterology and Hepatology.
Hiện tại, không có chiến lược không xâm lấn được thiết lập có thể xác định hiệu quả những bệnh nhân có NAFLD có nguy cơ cao tiến triển thành xơ gan và các biến chứng liên quan đến gan.
Mặc dù giai đoạn xơ hóa trên mô học có thể dự đoán các kết quả liên quan đến gan ở những bệnh nhân này, nhưng phương pháp này xâm lấn, tốn thời gian và thường không được bệnh nhân dung nạp tốt.
Mặc dù kỹ thuật này được ghi nhận vì tỷ lệ thành công cao và mức độ tin cậy và khả năng tái tạo tuyệt vời, nhưng 1 hạn chế có thể có của MRE là chi phí cao.
Vai trò của phép đo độ cứng gan ban đầu của MRE, Tiến sĩ Gidener cùng các đồng nghiệp được thực hiện 1 nghiên cứu thuần tập hồi cứu đánh giá các kết cục liên quan đến gan cứng ở 829 bệnh nhân trưởng thành có NAFLD có hoặc không có xơ gan (tuổi trung bình, 58 tuổi; 54% nữ) người trải qua MRE trong giai đoạn 2007-2019.
Các bệnh nhân trong nghiên cứu được theo dõi từ khi MRE đầu tiên đến khi tử vong, lần gặp lâm sàng cuối cùng hoặc khi kết thúc nghiên cứu. Kết quả lâm sàng được đánh giá trong tổng quan biểu đồ cá nhân gồm xơ gan, gan mất bù và tử vong.
Lúc ban đầu, kết quả đo độ cứng trung bình của gan là 2,8 kPa ở 639 bệnh nhân NAFLD nhưng không xơ gan. Trong thời gian theo dõi trung bình 4 năm, có tổng cộng 20 bệnh nhân phát triển thành xơ gan, với tỷ lệ bệnh hàng năm là 1%.
Đo độ cứng gan ban đầu bằng MRE có ý nghĩa dự đoán về xơ gan tiếp theo (tỷ lệ nguy cơ, 2,93; khoảng tin cậy 95%, 1,86-4,62; P <.0001) trên 1 kPa khác biệt trong phép đo độ cứng gan tại thời điểm ban đầu.
Theo các nhà nghiên cứu, xác suất phát triển xơ gan trong tương lai có thể được xác định chắc chắn bằng cách sử dụng phương pháp đo độ cứng gan hiện tại. Ngưỡng xác suất lớn hơn 1% có thể đạt được sau 5 năm ở bệnh nhân đo 2 kPa, 3 năm ở bệnh nhân đo 3 kPA và 1 năm ở bệnh nhân 4-5 kPa.
Các khung thời gian này thông báo thời gian ước tính tiến triển thành các kết quả khó và cung cấp hướng dẫn việc theo dõi tiến triển bệnh không xâm lấn tiếp theo.
Đo độ cứng gan ban đầu bằng MRE cũng dự đoán có ý nghĩa tình trạng gan mất bù hoặc tử vong trong tương lai (HR, 1,32; KTC 95%, 1,13-1,56; P = .0007) trên mỗi gia số 1 kPa trong phép đo độ cứng gan.
Xác suất gặp trường hợp mất bù hoặc tử vong do gan sau đó trong 1 năm trên bệnh nhân xơ gan và kết quả đo độ cứng gan ban đầu là 5 kPa so với 8 kPa tương ứng là 9% so với 20%. Tuổi tác là yếu tố duy nhất làm tăng nguy cơ mất bù ở gan hoặc tử vong.
Trong khi nghiên cứu hiện tại cung cấp 1 cái nhìn sơ lược về tác động lâm sàng tiềm năng của việc đo độ cứng gan bằng MRE trong NAFLD.
Tên bài:
MR Elastography Could Predict Cirrhosis in NAFLD
Brandon May
August 06, 2021
Medscape.com