Tên bài:
Confirmed: Pembro Plus Chemo as First-Line Standard of Care for Esophageal Cancer
Roxanne Nelson, RN, BSN, January 21, 2022
Pembrolizumab (Keytruda) cộng với hóa trị liệu nên được coi là tiêu chuẩn chăm sóc hàng đầu mới trong ung thư thực quản giai đoạn muộn, theo kết quả cuối cùng của 1 nghiên cứu lớn ở giai đoạn 3.
Một phân tích tạm thời của nghiên cứu KEYNOTE-590, được xuất bản vào năm 2020, sự kết hợp giữa pembrolizumab và hóa trị liệu ở cơ sở đầu tay ghi nhận vượt trội hơn so với hóa trị đơn thuần trong tất cả các biện pháp kết quả.
Phân tích cập nhật, bổ sung thêm số liệu theo dõi trong 12 tháng, pembrolizumab đầu tiên cộng với hóa trị liệu tiếp tục mang lại những lợi ích có ý nghĩa lâm sàng ở tất cả bệnh nhân ung thư thực quản di căn và tiến triển tại chỗ, gồm ung thư biểu mô tuyến đường nối dạ dày-thực quản, theo tác giả chính Jean-Philippe Metges, MD, của CHU Brest-Institut de Cancerologie et d’Hematologie ARPEGO Network, Brest, Pháp.
Số liệu chất lượng cuộc sống và độ an toàn tương tự cũng được quan sát thấy với pembrolizumab cùng với hóa trị liệu so với hóa trị liệu đơn thuần.
Những số liệu dài hạn này hỗ trợ thêm pembrolizumab đầu tiên cộng với hóa trị liệu như 1 tiêu chuẩn chăm sóc mới ở bệnh nhân ung thư thực quản di căn và tiến triển tại chỗ.
Pembro dùng trong điều trị ung thư thực quản
Pembrolizumab lần đầu tiên nhận được sự chấp thuận theo quy định vào năm 2019 dưới dạng đơn trị liệu hàng thứ 2 trong điều trị ung thư biểu mô tế bào vảy tiến triển tại chỗ hoặc di căn tái phát của thực quản ở các khối u có biểu hiện PD-L1.
Năm 2021, FDA mở rộng chỉ định, cấp phép nhanh chóng pembrolizumab kết hợp với hóa trị liệu dựa trên platinum và fluoropyrimidine trong điều kiện đầu tiên đối với những bệnh nhân không phải là ứng cử viên phẫu thuật cắt bỏ hoặc hóa trị liệu dứt điểm.
Số liệu KEYNOTE-590 được cập nhật sức nặng lớn hơn đối với việc sử dụng pembrolizumab cộng với hóa trị liệu làm tiêu chuẩn chăm sóc hàng đầu trong ung thư thực quản giai đoạn cuối.
Trong phân tích, tổng số 749 bệnh nhân đủ điều kiện ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản tiến triển tại chỗ, không thể cắt bỏ hoặc di căn chưa được điều trị trước đây (ESCC), ung thư biểu mô tuyến hoặc ung thư biểu mô tiếp giáp thực quản loại 1 của Siewert, bất kể tình trạng PD-L1, được chỉ định ngẫu nhiên (1 : 1) dùng pembrolizumab 200 mg hoặc giả dược cộng với 5-fluorouracil và cisplatin 3 tuần 1 lần trong tối đa 35 chu kỳ.
Tỷ lệ sống sót tổng thể ở tất cả bệnh nhân cũng như các phân nhóm gồm những người có ESCC, ESCC PD-L1 kết hợp điểm dương tính (CPS) ≥10 khối u, và PD-L1 CPS ≥10 khối u. Nhóm nghiên cứu cũng xem xét tỷ lệ sống không tiến triển ở hầu hết các nhóm và tỷ lệ phản ứng tổng thể, thời gian phản ứng, an toàn và chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe.
Điều trị tiếp tục đến khi bệnh tiến triển, độc tính không thể chấp nhận được, ngừng thuốc, hoặc đến 2 năm, không cho phép bắt chéo thuốc.
Tại thời điểm theo dõi trung bình 34,8 tháng, thời gian sống thêm trung bình tổng thể dài hơn đối với tất cả bệnh nhân điều trị phối hợp cũng như bệnh nhân có ESCC, và ung thư biểu mô tuyến.
Đối với thời gian sống thêm không tiến triển, pembrolizumab cộng với hóa trị liệu vượt trội hơn ở tất cả bệnh nhân, nhóm ESCC, cũng như nhóm khối u PD-L1 CPS ≥10.
Tỷ lệ sống thêm 24 tháng ở tất cả các bệnh nhân cũng cao hơn đáng kể ở những người được điều trị kết hợp, 26,3% so với 16,1%, cũng như tỷ lệ sống thêm 24 tháng không tiến triển 11,6% so với 3,3%.
Tỷ lệ phản hồi chung là 45,0% ở nhóm kết hợp, với 25 câu trả lời hoàn chỉnh (6,7%), so với 29,3% ở nhóm đối chứng, với 9 câu trả lời hoàn chỉnh (2,4%). Thời gian đáp ứng trung bình là 8,3 tháng ở nhóm kết hợp so với 6,0 tháng ở nhóm hóa trị. Khoảng 20% bệnh nhân trong nhóm kết hợp có tỷ lệ đáp ứng kéo dài 24 tháng hoặc lâu hơn, so với 6% chỉ được hóa trị.
Các tác dụng phụ quan đến thuốc cấp độ 3–5 là tương tự nhau ở cả 2 nhóm, 72% đối với kết hợp thuốc so với 68% đối với hóa trị liệu đơn thuần. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân trong nhóm kết hợp ngừng điều trị do các tác dụng phụ liên quan đến thuốc, 21% so với 12%.
Không có tác dụng phụ bổ sung hoặc bất ngờ trong thời gian theo dõi lâu hơn, cộng với chất lượng cuộc sống có thể so sánh được giữa các nhóm.
Một trong những phát hiện có liên quan nhất là 20% bệnh nhân đáp ứng trong hơn 24 tháng. Điều quan trọng nữa là phải duy trì 1 chất lượng cuộc sống tương tự.
Hiệu quả của liệu pháp kết hợp trên tất cả các phân nhóm dẫn đến sự chấp thuận rộng rãi của FDA, mặc dù Cơ quan Thuốc Châu u giới hạn sự chấp thuận của nó đối với những bệnh nhân có khối u PD-L1 CPS ≥10.
Mặc dù tất cả các phân nhóm đều hoạt động tốt, nhưng bệnh nhân có PD-L1CPS ≥10 tốt hơn. PD-L1 có thể là 1 dấu ấn sinh học âm tính và có thể cung cấp thông tin đối với mức độ lợi ích