Tên bài: Dual Immunotherapy Promising New Option for Liver Cancer
Roxanne Nelson, RN, BSN, January 24, 2022
Một phác đồ điều trị miễn dịch kép mới lạ cải thiện đáng kể khả năng sống sót tổng thể so với tiêu chuẩn chăm sóc ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) tiên tiến, không thể cắt bỏ trong thử nghiệm HIMALAYA giai đoạn 3 lớn.
Phác đồ mới, có tên là STRIDE (Single T Regular Interval D), gồm 1 liều mồi duy nhất của tremelimumab sau đó là các liều thường xuyên của durvalumab (Imfinzi).
Bệnh nhân theo phác đồ này có nguy cơ tử vong thấp hơn 22% so với bệnh nhân được điều trị bằng sorafenib (Nexavar), vào thời điểm thử nghiệm bắt đầu là tiêu chuẩn chăm sóc tuyến đầu duy nhất được cấp duyệt với bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn cuối.
Tại thời điểm 3 năm, gần 31% bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp kết hợp vẫn còn sống, so với 24,7% đối với durvalumab đơn thuần và 20,2% đối với sorafenib.
Theo tác giả chính Ghassan Abou-Alfa, MD, MBA, Trung tâm Ung thư Toàn diện Memorial Sloan Kettering ở New York, phác đồ mới này có thể đại diện trong các lựa chọn điều trị mới đối với những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan chưa được điều trị. Trong khi chờ sự chấp thuận của FDA, phác đồ trị liệu miễn dịch kép mới này có thể cung cấp tới tất cả bệnh nhân và sẽ không yêu cầu đánh giá thêm độ an toàn trước khi điều trị.
Theo Anthony B. El-Khoueiry, MD, Đại học Nam California, Trung tâm Ung thư Norris, Los Angeles, phác đồ STRIDE, với sự kết hợp của 1 liều tremelimumab ban đầu và durvalumab khoảng cách đều đặn, là 1 lựa chọn điều trị đầu tay mới trên bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn cuối.
Ung thư gan ngày càng tăng,
Ung thư gan là 1 trong số ít bệnh ung thư có tỷ lệ tử vong ngày càng cao ở Mỹ. Tỷ lệ tử vong do ung thư gan nói chung tăng gấp 2 kể từ năm 1980. Tỷ lệ sống 5 năm gần đây nhất là 32,6% đối với bệnh khu trú, 10,8% với bệnh khu vực và 2,4% với di căn xa.
Gần đây hơn, tác nhân chống PD-L1 atezolizumab cộng với bevacizumab ghi nhận lợi ích sống còn đáng kể so với sorafenib và trở thành 1 tiêu chuẩn chăm sóc sau khi được cấp duyệt vào năm 2020.
Năm 2020 tremelimumab là 1 liệu pháp miễn dịch thử nghiệm nhắm vào thụ thể CTLA-4. Tremelimumab sẽ thúc đẩy phản ứng với durvalumab, 1 chất ức chế PDL-1, vì điều này được quan sát thấy trong thử nghiệm pha 2 Nghiên cứu 22, thử nghiệm chế độ STRIDE.
Bây giờ trong thử nghiệm HIMALAYA giai đoạn 3, phác đồ STRIDE được so sánh với durvalumab được sử dụng 1 mình và sorafenib được sử dụng 1 mình.
Thử nghiệm chọn ngẫu nhiên 1171 bệnh nhân nhận phác đồ STRIDE (liều duy nhất 75 mg tremelimumab cộng với 1500 mg durvalumab mỗi 4 tuần) hoặc durvalumab đơn thuần (1500 mg mỗi 4 tuần) hoặc sorafenib đơn thuần (400 mg x 2 lần / ngày).
Ban đầu, cũng có 1 nhánh chứa tremelimumab liều thấp hơn, nhưng việc tuyển dụng vào nhóm này dừng lại sau khi phân tích theo kế hoạch của Nghiên cứu 22 không thấy sự khác biệt có ý nghĩa đối với hiệu quả giữa nhánh đó và chỉ dùng durvalumab.
Tại thời điểm cắt số liệu, mục tiêu chính của nghiên cứu được đáp ứng. Tỷ lệ sống sót nói chung được cải thiện đáng kể đối với STRIDE và sorafenib. Thời gian sống thêm trung bình là 16,4 tháng đối với nhóm STRIDE so với 13,8 tháng đối với sorafenib và 16,6 tháng đối với riêng durvalumab.
Thời gian sống thêm không có tiến triển trung bình lần lượt là 3,8 tháng, 3,7 tháng và 41,1 tháng.
Tỷ lệ đáp ứng chung của nhóm STRIDE là 20,1% so với 17% đối với durvalumab và 5,1% đối với sorafenib, và thời gian đáp ứng trung bình lần lượt là 22,3 tháng, 16,8 tháng và 18,4 tháng.
Các tác dụng phụ cấp 3 hoặc 4 liên quan đến điều trị gặp ở 25,8% bệnh nhân khi phối hợp thuốc, so với 12,9% đối với durvalumab và 36,9% đối với sorafenib.
Các biến cố cấp 5 gặp ở 2,3% trong nhóm STRIDE, so với 0% ở những người chỉ dùng durvalumab và 0,8% ở nhóm sorafenib. Việc ngừng điều trị do các biến cố gặp lần lượt ở 8,2%, 4,1% và 11,0% bệnh nhân.
Lựa chọn mới đối với điều trị đầu tiên
Thử nghiệm loại trừ những bệnh nhân có huyết khối tĩnh mạch cửa chính (PVT), việc phân tích phân nhóm bệnh nhân viêm gan C cần được nghiên cứu thêm.
Một điểm khác là, so với các nghiên cứu khác, các biến cố chảy máu ít phổ biến hơn trong thử nghiệm HIMALAYA, nhưng nó loại trừ những bệnh nhân có PVT chính có nguy cơ chảy máu cao nhất.
STRIDE có đặc điểm độc tính khác với các dạng kết hợp chứa VEGF (ví dụ, chứa bevacizumab) và có nguy cơ chảy máu thấp hơn và tỷ lệ có thể kiểm soát được các tác dụng phụ qua trung gian miễn dịch cần dùng steroid.
Thử nghiệm này ghi nhận durvalumab không kém so với sorafenib. Đây có thể là lựa chọn điều trị đầu tay đối với 1 số bệnh nhân, có thể là những người kém ứng dụng với liệu pháp phối hợp hoặc có chống chỉ định với VEGF.
Tuy nhiên, STRIDE đại diện 1 lựa chọn điều trị mới nổi trong dân số này, đặc biệt là đối với những bệnh nhân có chống chỉ định với bevacizumab và có nguy cơ chảy máu cao.
Đối với HCC, hiện có nhiều lựa chọn điều trị đầu tay. Việc lựa chọn liệu pháp nên được hướng dẫn bởi hồ sơ độc tính và chống chỉ định của bệnh nhân.
Đối với tương lai, sự phát triển của dấu ấn sinh học là rất quan trọng trong nâng cao phương pháp tiếp cận được cá nhân hóa.
Sorafenib không còn là phương tiện kiểm soát thích hợp đối với các thử nghiệm đầu tay. Thời điểm chuyển đổi từ liệu pháp chỉ định từ gan sang liệu pháp toàn thân là rất quan trọng với nhiều lựa chọn cung cấp.
HCC trong bối cảnh chức năng gan tổn thương tiếp tục là 1 nhu cầu chưa được đáp ứng. Và cuối cùng, ở dòng thứ 2 và hơn thế nữa, liệu pháp sau khi kết hợp liệu pháp miễn dịch ở dòng thứ 1 chủ yếu là theo kinh nghiệm. Nghiên cứu là cần thiết thiết lập hiệu quả của các lựa chọn điều trị cung cấp và trong tương lai sau liệu pháp miễn dịch và trình tự tối ưu.