Ức chế GM-CSF bằng mavrilimumab ngăn ngừa 1 số bệnh nhân viêm phổi COVID-19 nặng và viêm siêu vi khuẩn không cần thở máy và giảm nguy cơ tử vong so với giả dược trong nghiên cứu giai đoạn 2.
Không có sự khác biệt về kết quả giữa 2 liều mavrilimumab được sử dụng trong thử nghiệm (6 mg / kg hoặc 10 mg / kg) và số liệu kết hợp thấy tỷ lệ bệnh nhân đạt được tiêu chuẩn chính là sống và không phải thở máy cao hơn ở ngày 29 với mức 87%, so với giả dược, là 74%.
Nguy cơ tử vong giảm 61% nếu bệnh nhân dùng mavrilimumab thay vì giả dược. Tỷ lệ tử vong ở ngày 29 là 21% ở nhóm dùng giả dược nhưng chỉ 8% ở nhóm mavrilimumab kết hợp (P = 0,07).
Tương tự như tocilizumab, lợi ích của mavrilimumab có lợi ích như glucocorticoid, tương tự 96% bệnh nhân được dùng dexamethasone. Hơn nữa, gần 1/3 được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút hoặc remdesivir.
Cytokine GM-CSF rất quan trọng đối với cả cân bằng nội môi và điều hòa phản ứng viêm trong cơ chế tự miễn dịch.
GM-CSF có liên quan đến cơ chế xâm nhập và kích hoạt tế bào miễn dịch không bình thường trong phổi, và nó có thể góp phần gây suy hô hấp và tử vong ở những bệnh nhân viêm phổi COVID-19 nặng và viêm siêu vi toàn thân.
Hiệu quả và tính an toàn của việc ngăn chặn GM-CSF với mavrilimumab được chứng minh trước đây trong các nghiên cứu pha 2 ở các bệnh khác. Điều này gồm những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp và những người viêm động mạch tế bào khổng lồ.
Phong tỏa thụ thể GM-CSF – alpha có thể làm giảm sự xâm nhập của các tế bào gây bệnh vào phổi và có thể ngăn chặn tình trạng viêm trong viêm phổi COVID-19 trong quá trình viêm nhiễm siêu vi.
Nghiên cứu được trình bày bởi Pupim là 1 thử nghiệm mù đôi giai đoạn 2/3, có đối chứng với giả dược chủ yếu được tiến hành ở Brazil, Hoa Kỳ và Nam Phi, với 1 số tham gia ở Peru và Chile.
Bệnh nhân đủ điều kiện đưa vào nếu họ có xét nghiệm COVID-19 dương tính trong vòng 14 ngày kể từ ngày phân nhóm ngẫu nhiên và đã được nhập viện nhưng không thở máy.
Bằng chứng về viêm phổi 2 bên trên phim chụp X-quang hoặc CT ngực và bằng chứng phòng thí nghiệm lâm sàng thấy viêm phổi cấp cũng là những điều kiện tiên quyết đăng ký nghiên cứu.
Nghiên cứu gồm 2 nhóm thuần tập: những bệnh nhân không được thở máy và những người mới được thở máy gần đây. Nhóm thuần tập không thở máy có tổng số 116 bệnh nhân ở độ tuổi trung bình là 57 tuổi.
Bệnh nhân được chọn ngẫu nhiên vào 1 trong 3 nhóm điều trị: 2 nhóm được truyền tĩnh mạch duy nhất mavrilimumab, 6 mg / kg hoặc 10 mg / kg, và nhóm thứ 3 được dùng giả dược.
Sử dụng phương pháp tiếp cận thời gian đến sự kiện, xem xét khả năng sống sót khi không thở máy, những người nhận mavrilimumab giảm 65% nguy cơ tử vong hoặc thở máy.
Có xu hướng hướng tới lợi ích nhanh hơn với mavrilimumab so với giả dược ở 2 tiêu chuẩn phụ quan trọng khác: thời gian trung bình đạt được cải thiện lâm sàng 2 điểm (7 so với 11 ngày) và thời gian trung bình sử dụng thông khí hỗ trợ (7 so với 9 ngày).
Arian Pano, MD, Kiniksa, Mavrilimumab được truyền 1 lần duy nhất và được dung nạp tốt; không có sự gián đoạn trong nghiên cứu này.
Không thấy tác dụng phụ nghiêm trọng liên quan đến mavrilimumab, và các tác dụng phụ gồm nhiễm trùng thứ phát, biến chứng của COVID-19 ít gặp hơn ở những người dùng mavrilimumab, so với giả dược.
Báo cáo có 1 trường hợp có bệnh lao trên 1 bệnh nhân được điều trị bằng mavrilimumab (10 mg / kg). Trường hợp đó gặp trong 1 khu vực lưu hành bệnh lao, và bệnh nhân đã được kiểm tra trước khi ghi danh.
Trước những sự kiện này, bệnh nhân được dùng corticosteroid liều cao, 1 yếu tố nguy cơ tái hoạt động của bệnh lao.
Các biến cố huyết khối của COVID-19, gặp ở nhóm giả dược.
Nghiên cứu hiện đã tiếp tục liền mạch đến giai đoạn 3. Vào cuối giai đoạn 2, cả 6 mg / kg và 10 mg / kg đều đang được nghiên cứu, nhưng rất có thể 6 mg / kg có thể là liều được đăng kí cấp phép. Các nhà nghiên cứu nêu lên sẽ cần đợi số liệu giai đoạn 3 có thể vào cuối năm nay.
Tê bài:
Mavrilimumab May Aid Severe COVID-19 Recovery
Sara Freeman
June 11, 2021
Medscape.com