Những bệnh nhân có bệnh võng mạc do sinh non ít có nguy cơ có bất thường cấu trúc mắt hoặc cận thị khi họ được điều trị bằng ranibizumab 0,2 mg so với khi họ được điều trị bằng laser.
Các nhà nghiên cứu kiểm tra số liệu trên 153 trẻ sơ sinh hoàn thành 1 thử nghiệm ngẫu nhiên tính an toàn và hiệu quả của ranibizumab so với liệu pháp laser đối với bệnh võng mạc do sinh non ở trẻ sơ sinh nhẹ cân (dưới 1.500 g) và được ghi danh vào 1 thử nghiệm mở rộng.
Trẻ em trong nghiên cứu mở rộng được đánh giá nhãn khoa, phát triển và sức khỏe khi chúng được 20 đến 28 tháng tuổi, được điều chỉnh về tình trạng sinh non.
Kết quả chính của phân tích mới là không có bất thường cấu trúc mắt. Không có trẻ phát triển bất thường cấu trúc mắt mới; 1 trẻ em (2%) trong nhóm ranibizumab 0,2 mg và 1 trẻ em (2%) trong nhóm điều trị bằng laser có bất thường về cấu trúc.
So với liệu pháp laser, tỷ lệ chênh lệch của không có bất thường cấu trúc cao hơn đáng kể với ranibizumab 0,2 mg, cũng như với ranibizumab 0,1 mg.
Tỷ lệ không có bất thường về cấu trúc cũng cao hơn đáng kể với ranibizumab 0,2 mg so với ranibizumab 0,1 mg.
Tỷ lệ cận thị cao, được các nhà nghiên cứu định nghĩa là -5 diop hoặc tệ hơn, được thấy ở 1 tỷ lệ nhỏ hơn ở những bệnh nhân được điều trị bằng ranibizumab 0,2 mg (5%) so với những người được điều trị bằng laser (20%).
Nhóm nghiên cứu viết trên tạp chí The Lancet Child & Adolescent Health, không có biến chứng mắt muộn ảnh hưởng đến thị lực và trẻ sơ sinh tiếp xúc với ranibizumab có tỷ lệ cận thị thấp hơn.
Nghiên cứu thấy các bệnh nhân điều trị bằng laser và ranibizumab cũng có tần suất lác mắt, rung giật nhãn cầu, cố định bất thường và phản ứng đồng tử bất thường tương tự.
Kết quả 2 trẻ em dùng ranibizumab có các tác dụng phụ mắt, trong đó có 1 trường hợp sưng mí mắt và 1 trường hợp viêm kết mạc.
Với 2 đứa trẻ có bất thường cấu trúc mắt, 1 trong nhóm ranibizumab và 1 trong nhóm điều trị bằng laser có bong võng mạc trong thời gian thử nghiệm ban đầu. 1 trong 2 người tái phát trong quá trình phân tích theo dõi được điều trị bằng phẫu thuật cắt dịch kính và có cấu trúc cơ bình thường lúc 1 tuổi 2 tuổi.
Tuy nhiên, ranibizumab điều trị kháng VEGF không liên quan đến bất kỳ tác dụng phụ nghiêm trọng và phân tích hiện tại không có lo ngại sự an toàn lâu dài. Không có tác dụng của ranibizumab được phát hiện đối với sự phát triển thần kinh, tăng trưởng, huyết áp hoặc hô hấp.
Tên bài:
Ranibizumab Safe, Effective Versus Laser Therapy for Retinopathy of Prematurity
By Lisa Rapaport
September 09, 2021
Medscape.com
Link: http://www.medscape.com/viewarticle/958385