Virus ebola là gì ?
Bệnh nhiễm virus Ebola ở người và loài linh trưởng, trước đây gọi là sốt xuất huyết Ebola, do virus Ebola
gây ra. Đây là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, rất nặng, rất dễ lây lan và nhanh chóng bùng phát thành dịch, tỉ lệ tử vong rất cao, có thể lên đến 90%. Virus Ebola được truyền từ động vật hoang dại đến người và lây lan trong cộng đồng do lây truyền qua tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với mô, máu và dịch cơ thể của động vật hoặc người nhiễm bệnh. Bệnh nhiễm virus Ebola xuất hiện lần đầu tiên năm 1976 với hai trận dịch cùng lúc tại châu Phi, một ở Nzara, Sudan và một ở nước cộng hòa Congo (tên gọi trước đây là Zaire). Trận dịch ở Congo khởi phát từ một ngôi làng bên sông Ebola, từ đó Ebola được đặt tên cho virus gây bệnh. Trận dịch Ebola xuất hiện ở Tây Phi vào tháng 3-2014 là trận dịch lớn nhất kể từ khi phát hiện được virus Ebola, năm 1976. số ca nhiễm và tử vong tăng liên tục, virus Ebola có lẽ là virus độc hại hơn bất cứ loại virus nào khác gây bệnh ở người được biết trên trái đất.
Phân loại
Virus Ebola cùng với Marburgvirus và Cuevavirus là ba giống (genus) của họ Filoviridae (filo: mối đe dọa). Virus Ebola và Marburgvirus có độc tính cao với loài người và loài linh trưởng, gây bệnh nặng và thường dẫn đến tử vong. Virus Ebola có năm loài (species) khác nhau: Zaire ebolavirus (EBOV), Sudan ebolavirus (SUDV), Bundibugyo ebolavirus (BDBV), Tai’ Forest ebolavirus (TAFV), Reston ebolavirus (REBOV).
Trong đó, các loài EBOV, SUDV và BDBV đã từng gây dịch lớn tại châu Phi. Zaire ebolavirus là nguyên nhân của trận dịch Ebola tại Tây phi năm 2014. Trái lại, hai loài TAFV và REBOV chưa từng gây dịch bệnh.
Tính chất virus
Virion của virus Ebola có hình ống hoặc đa dạng với những nhánh dài, hình chữ u, hình số 6 với đường kính 80 nm và chiều dài thay đổi từ 80 nm tới 1400 nm. Virus Ebola có màng bọc ngoài, cấu trúc bởi lớp đôi lipid, với glycoprotein (GP) tạo gai nhú trên bề mặt virus, dài 10 nm. Bộ gen virus là RNA sợi đơn cực âm, thẳng, dài khoảng 19.000 kilobases nucleotises. Bộ gen mã hóa cho các protein cấu trúc, đó là: nucleoprotein (NP), protein tạo nucleocapsid 30 (VP30), VP35 và polymerse (L) trong lõi; 2 protein đệm VP24 và VP40 nằm ờ khoảng giữa lõi và màng virus. Nucleocapsid hình xoắn ốc.
Sự nhân lên của virus Ebola
Sự nhân lên của virus Ebola cũng gồm những giai đoạn tương tự như ở các virus khác: virus xâm nhập vào tế bào ký chủ, cởi bỏ màng bọc ngoài, tổng hợp acid nucleic, tổng hợp protein của virus, lắp láp (trưởng thành), được phóng thích khỏi tế bào ký chủ và lại khởi đầu một chu kỳ mới.
Virus Ebola nhạy cảm với nhiệt độ và có thể bị bất hoạt ở nhiệt độ 60°c trong 60 phút.
Sinh bệnh học và miễn dịch học
Virus Ebola có ái tính cao và tấn công vào phần lớn các loại tế bào, mô và cơ quan của cơ thể con người. Các thực bào, tế bào tua (dendritic cell), nguyên bào sợi ở mô kẽ và tế bào nội mô là những tế bào đích của virus Ebola. Tương tự, virus Ebola tập trung ở gan, lách, phổi, thận, máu và các loại dịch thể. Virus Ebola gây tử vong với tỉ lệ cao khi có các yếu tố độc tính nặng:
• Glycoprotein của virus tiêu diệt tế bào nội mô, gây xuất huyết, sốc và đông máu nội mạch lan tỏa (Die – disseminated intravascular coagulation).
• Hai protein khác của virus ức chế sự xâm nhập và hoạt động của interferon. Tế bào lympho bị tiêu diệt, đáp ứng kháng thể không hiệu quả và hệ miễn dịch bị suy yếu.
Nếu bệnh nhân bình phục, kháng thể kháng Ebola trong huyết thanh bệnh nhân có thể được dùng để điều trị cho bệnh nhân nhiễm virus Ebola khác.
Triệu chứng lâm sàng
Bệnh nhiễm Ebola rất nguy hiểm còn do các triệu chứng rất đa dạng, xuất hiện nhanh chóng và có biểu hiện giống bệnh truyền nhiễm khác như bệnh sốt rét, thương hàn, kiết lỵ, cúm, … ít gây tử vong hơn bệnh Ebola.
Sau thời gian ủ bệnh 2-21 ngày (trung bình từ 4-10 ngày), các triệu chứng khởi phát đột ngột là sốt cao, ớn lạnh và đau cơ. Dấu hiệu tiếp theo liên quan đến các hệ cơ quan khác nhau: hệ và tiêu hóa (buồn nôn, nôn, tiêu chảy), hệ hô hấp (ho, đau ngực) và hệ thần kinh (nhức đầu), …. Các triệu chứng điển hình là phát ban lan tỏa, xuất huyết nội hoặc ngoại, sốc và suy đa phủ tạng dẫn đến tử vong. Tỉ lệ tử vong ở bệnh nhiễm virus Ebola cao bất thường so với hầu hết các bệnh truyền nhiễm khác. Nếu không được điều trị, tỉ lệ tử vong có thể lên tới 90%. Ngay cả khi được điều trị, tỉ lệ này cũng vào khoảng 50%.
Chẩn đoán phòng thí nghiệm
Để phát hiện căn nguyên gây bệnh là virus Ebola, cần thực hiện qui trình xét nghiệm như sau:
• Bệnh phẩm là máu được bảo quản và chuyên chờ theo qui định an toàn với bệnh phẩm (máu) có nguy cơ lây nhiễm cao.
• Phương pháp xét nghiệm: có thể tiến hành các phương pháp virus học, miễn dịch học, sinh học phân tử để chẩn đoán xác định bệnh nhiễm virus Ebola.
• Phân lập virus: phải được tiến hành tại phòng an toàn sinh học cấp 4. Nuôi cấy virus trong các dòng tế bào thích hợp như tế bào Vero hoặc tê bào khi MA-104.
• Xét nghiệm miễn dịch: sử dụng phương pháp ELISA để phát hiện kháng thể đặc hiệu kháng virus Ebola trong huyết thanh bệnh nhân ở giai đoạn bình phục hoặc phát hiện kháng nguyên khi bệnh đang diễn tiến.
• Xét nghiệm sinh học phân tử: kỹ thuật RT-PCR phát hiện đoạn gen đặc hiệu của virus Ebola.
Dịch tễ học
Ký chủ tự nhiên của virus Ebola là loài dơi, theo Tổ chức Y tế Thế giới. Ngoài ra, loài linh trưởng có thể là trung gian truyền bệnh nếu nhiễm virus Ebola từ nước bọt hoặc phân dơi.
Phương thức lây truyền: Bệnh nhiễm virus Ebola lây truyền qua đường tiếp xúc trực tiếp với dịch cơ thể như máu, nước bọt, nước tiêu, chất nôn, … của người bệnh và tiếp xúc với các bề mặt thiết bị bị nhiễm virus, bao gồm chăn, nệm đã dính dịch cơ thể của bệnh nhân.
Các đối tượng có nguy cơ cao mắc bệnh: Những người trong gia đình hoặc những người có tiếp xúc gần gũi, trực tiếp với người bị bệnh. Nhân viên y tế trực tiếp chăm sóc bệnh nhân. Những người trực tiếp tiếp xúc với thi thể bệnh nhân (nhân viên lễ tang). Thợ săn, người sống trong rừng có tiếp xúc với động vật mắc bệnh (tinh tinh, vượn người, linh dương, dơi ăn quả, …) bị nhiễm bệnh hoặc chết do virus Ebola.
Trận dịch Ebola khởi phát đầu tiên ở Tây Phi vào tháng 3-2014 đã nhanh chóng lan ra các vùng lân cận và mặc dù đã tích cực, chủ động phòng ngừa nhưng vẫn xuất hiện những ca bệnh ở châu Âu và Hoa kỳ. Theo thông báo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong một thời gian ngắn, số ca bệnh và tử vong tăng lên nhanh chóng: từ tháng 3-2014 đến ngày 17-10-2014 đã ghi nhận 9.284 ca mắc bệnh, trong đó 4.604 ca tử vong; đến những ngày đầu tháng 12- 2014: con số này đã lên tới hơn 16.000 ca mắc bệnh, trong đó có hơn 7.000 ca tử vong.
Phòng ngừa và điều trị
Phòng ngừa
Chủ yếu là ngăn chặn sự phát tán của virus từ chất tiết và máu của bệnh nhân nhiễm virus Ebola. Cụ thể là tránh tiếp xúc trực tiếp với người bệnh. Nếu phải tiếp xúc với bệnh nhân bắt buộc phải sử dụng phương tiện phòng chống lây nhiễm cho cá nhân: đội nón, mang khẩu trang y tế (N95), kính bảo hộ hoặc kính che mặt, găng tay, vớ, quần áo vô khuẩn.
Điều trị
Hiện chưa có vaccin phòng bệnh đặc hiệu với virus Ebola, một số quốc gia trên thế giới (Nga, Mỹ, Canada) đang tích cực nghiên cứu và hy vọng sẽ có vaccin phòng ngừa bệnh nhiễm virus Ebola vào giữa năm 2015.
Nguyên tắc điều trị:
- Không có điều trị đặc hiệu, chủ yếu là điều trị hỗ trợ.
- Các ca bệnh nghi ngờ phải được khám tại bệnh viện, cách ly bệnh nhân tuyệt đối để tránh lây lan. Lấy mẫu bệnh phẩm gửi làm xét nghiệm đặc hiệu để chẩn đoán bệnh.
- Các ca bệnh đã được xác định phải được nhập viện điều trị và cách ly hoàn toàn.
- Có thể truyền máu hoặc huyết tương của bệnh nhân nhiễm virus Ebola đã khỏi bệnh có chứa kháng thể kháng virus Ebola để điều trị.
Copy ghi nguồn: https://tapchiyhocvietnam.com/