Một báo cáo mới nêu lên tính an toàn lâu dài đối với tim phổi sau xạ trị hạch bên trong tuyến vú sau phẫu thuật ung thư vú.
Sau thời gian theo dõi trung bình 15,7 năm trong số gần 4000 phụ nữ, đối với 1/2 số bệnh nhân được chiếu xạ tuyến vú bên trong và hạch thượng đòn giữa (IM-MS) sau phẫu thuật, tỷ lệ và sự khác biệt tuyệt đối của các biến chứng tim và phổi rất thấp, không có tỷ lệ tử vong liên quan đến ung thư vú không gia tăng, ngay cả trước khi giới thiệu các kỹ thuật cao.
Phát hiện này đến từ thử nghiệm European Organization for Research and Treatment of Cancer (EORTC) trial. Các nhà điều tra được dẫn đầu bởi Philip Poortmans, MD, Tiến sĩ, Đại học Antwerp, Antwerp, Bỉ, nhóm nghiên cứu trước đây báo cáo tỷ lệ tử vong do ung thư vú và tỷ lệ tái phát ung thư vú thấp hơn đối với nhóm xạ trị.
Những phụ nữ trong cuộc thử nghiệm được điều trị từ năm 1996 đến năm 2004. Với kết quả xạ trị dựa trên thể tích hiện đại sẽ còn tốt hơn, bằng cách cải thiện phạm vi bao phủ của thể tích đích, phân phối liều đồng đều hơn và giảm liều tới các mô không phải mục tiêu.
Kết quả quan trọng đáng yên tâm đối với việc quyết định liên quan đến điều trị hạch bạch huyết trong ung thư vú.
Nghiên cứu được báo cáo trực tuyến vào ngày 28/7 trên Tạp chí của Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ.
Có cuộc tranh luận trong nhiều thập kỷ đối với việc liệu rủi ro lâu dài liên quan đến chiếu xạ hạch, đặc biệt là tổn thương tim và phổi do chiếu xạ bên trong tuyến vú, có lớn hơn lợi ích của việc kiểm soát bệnh tốt hơn hay không, theo Julia White, MD, Đại học Bang Ohio, Columbus.
Mối quan tâm ban đầu bắt nguồn từ các thử nghiệm được tiến hành từ những năm 1950 đến những năm 1970. Trong những thử nghiệm đó, liều lượng bức xạ cao hơn được đưa đến hạch bên trong tuyến vú với độ chính xác kém hơn nhiều so với hiện nay.
Các quy trình khác nhau giữa các tổ chức. Một số điều trị các hạch IM ở những bệnh nhân có nguy cơ cao, nhưng 1 số khác chỉ điều trị hạch nách và hạch thượng đòn giữa.
Thử nghiệm EORTC mới đưa chúng ta tiến 1 bước gần hơn đến việc giải quyết tranh luận giá trị của bức xạ hạch bên trong tuyến vú (IMN).
Kể từ năm 2014, những tiến bộ trong lĩnh vực này giúp giảm gần 50% mức phơi nhiễm bức xạ tim trong quá trình điều trị ung thư vú. Các hướng dẫn hiện tại khuyến cáo các hạch bên trong tuyến vú nói chung nên được điều trị như 1 phần của xạ trị sau phẫu thuật cắt bỏ nhưng các biến chứng tim phổi vẫn có thể gặp phải ngay cả với các kỹ thuật được cải tiến.
Phụ nữ trong nghiên cứu ung thư vú giai đoạn I-III với sự liên quan đến hạch nách và / hoặc các khối u nguyên phát ở vị trí trung gian. Độ tuổi trung bình khi tham gia nghiên cứu là 54 tuổi. Các bệnh nhân được điều trị tại 46 trung tâm ở 13 quốc gia.
Nhóm được chiếu xạ IM-MS sau phẫu thuật nhận được 50 Gy trong 25 phân đoạn trong 5 tuần.
Tỷ lệ xơ hóa phổi tích lũy trong 15 năm là 5,7% ở phụ nữ được điều trị, so với 2,9% ở bệnh nhân đối chứng.
Tỷ lệ xơ hóa cơ tim là 1,9% khi điều trị, so với 1,1%.
Tỷ lệ bất kỳ bệnh tim là 11,1% ở nhóm xạ trị, so với 9,4% ở nhóm đối chứng.
Các biến chứng chủ yếu ở mức độ 1. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê duy nhất về tỷ lệ biến cố từ độ 2 trở lên là tỷ lệ bệnh phổi, là 0,8% với bức xạ so với 0,1% không có. Không có sự khác biệt về tỷ lệ các khối u ác tính thứ 2, các trường hợp ung thư vú 2 bên, hoặc tử vong do tim mạch khi chiếu xạ IMN.
Kết quả mâu thuẫn với 1 nghiên cứu năm 2013 thấy sự gia tăng tương đối các biến cố mạch vành chính là 7,4% trên mỗi liều tim trung bình Gy. Những phụ nữ trong thử nghiệm đó được điều trị ở Thụy Điển và Đan Mạch từ năm 1958 đến năm 2001.
Poortmans cùng các đồng nghiệp nêu lên nghiên cứu năm 2013 này và những nghiên cứu khác thấy nguy cơ gia tăng tỷ lệ thuận chứ không phải là tuyệt đối. Với rủi ro cơ bản là 10%, mức tăng 7% trên 1 Gy tương ứng với tổng rủi ro là 10,07%.
Không có sự gia tăng nguy cơ được báo cáo trong các thử nghiệm được báo cáo gần đây và 1 phân tích tổng hợp không tìm thấy sự gia tăng tỷ lệ tử vong không liên quan đến ung thư vú với các thử nghiệm bắt đầu sau năm 1988.
Đối với những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ tim phổi cơ bản cao hơn, nên sử dụng liều tim trung bình thấp hơn và những bệnh nhân này nên được theo dõi lâu dài hơn.
Tên bài:
Internal Mammary Lymph Node Radiation Safe Over the Long Term
M. Alexander Otto, MMS, PA
August 05, 2021
Medscape.com