Số liệu được báo cáo hôm thứ Ba nêu lên việc chần chừ sử dụng vắc xin COVID-19 có thể liên quan đến những sự kiện đau thương trong thời thơ ấu làm suy giảm lòng tin, gồm bạo lực gia đình, lạm dụng chất kích thích trong gia đình hoặc bỏ bê.
Theo Giáo sư Mark A. Bellis, Đại học Khoa học Nhân văn, Đại học Bangor, Vương quốc Anh cùng các đồng nghiệp, được báo cáo trực tuyến trên BMJ Open.
Kết quả đặc biệt có ý nghĩa vì sự phổ biến của các biến cố bất lợi đối với trẻ em (ACEs) trên toàn cầu, với tỷ lệ người trải qua nhiều chấn thương ở 1 số quốc gia là 10% dân số trở lên.
Sự do dự hoặc từ chối tiêm vắc-xin tăng lên cùng với số ca chấn thương được báo cáo.
Ví dụ, sự do dự ở những người trải qua 4 loại chấn thương thời thơ ấu trở lên cao hơn 3 lần so với những người không báo cáo bất kỳ sự kiện đau thương gặp phải.
Mức độ ACE cao hơn có liên quan đến việc do dự tiêm vắc-xin cao hơn, nhưng đó không phải là lý do duy nhất khiến mọi người chọn không tiêm chủng.
Đối với các bác sĩ lâm sàng, chỉ cần được thông báo chấn thương là có thể giúp ích. Hiểu được những nghịch cảnh thời thơ ấu có thể ảnh hưởng đến mọi người khi thảo luận tiêm vắc xin và hiểu được khả năng chống chọi với 1 vấn đề y tế phức tạp và 1 vấn đề đòi hỏi sự tin tưởng đáng kể. Điều gì có thể xuất hiện thường xuyên đối với bác sĩ lâm sàng có thể là 1 bước nhảy vọt khó khăn đối với niềm tin, đặc biệt là đối với những người có trải nghiệm kém hơn trong sự tin tưởng ngay cả trong môi trường gia đình.
Thêm chấn thương, lòng tin có thể giảm sút
Các tác giả sử dụng câu trả lời cuộc khảo sát qua điện thoại đại diện trên toàn quốc với người lớn ở xứ Wales được thực hiện từ tháng 12/2020 đến tháng 3/2021, khi các giới hạn covid có hiệu lực. Trong số 6763 người được liên hệ, 2285 người đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn và trả lời tất cả các câu hỏi và được đưa vào phân tích cuối cùng.
Cuộc khảo sát hỏi loại ACEs trước 18 tuổi gồm: cha mẹ ly thân; lạm dụng thể chất, lời nói và tình dục; tiếp xúc với bạo lực gia đình; và sống với 1 thành viên trong gia đình có bệnh tâm thần, lạm dụng rượu và / hoặc ma túy, hoặc người chịu giam giữ.
Nó cũng gồm các chi tiết cá nhân và thông tin sức khỏe lâu dài.
Khoảng 1 nửa số người được hỏi nêu lên chưa từng trải qua bất kỳ chấn thương thời thơ ấu. Trong số những người trả lời câu hỏi, 1/5 trải qua 1 loại, 17% 2 đến 3 loại, và 10% báo cáo 4 hoặc nhiều hơn.
Theo các tác giả, tỷ lệ ACEs được báo cáo phù hợp với các cuộc điều tra dân số có thể so sánh khác, gồm cả những cuộc điều tra được thực hiện trực tiếp.
Họ cũng điều tra các biện pháp lòng tin và sự ưa thích đối với các quy định y tế khác nhau.
Những người có nhiều ACE có nhiều khả năng không tin tưởng vào thông tin COVID-19 của Dịch vụ Y tế Quốc gia.
Các thông tin xã hội học khác và tiền sử có bệnh mãn tính hoặc nhiễm COVID-19 không liên quan đáng kể đến mức độ tin cậy thấp.
Những người báo cáo ACE cao hơn cũng có nhiều khả năng báo cáo họ cảm thấy chính phủ hạn chế 1 cách bất công. Những người có từ 4 ACE trở lên có nguy cơ cao hơn gấp 2 lần so với những người không có ACE cảm thấy hạn chế 1 cách bất công và muốn các quy tắc như đeo khẩu trang bắt buộc phải dừng lại.
Ngoài ra, những người có 4 loại chấn thương trở lên có khả năng bỏ qua các hạn chế gần như gấp 2 so với những người không trải qua bất kỳ hạn chế, 38% so với 21%, bỏ qua các hạn chế, ngay cả sau khi tính đến các mối liên quan với các yếu tố xã hội học và nhiễm covid trước đó hoặc tiền sử của các điều kiện lâu dài.
Các bác sĩ lâm sàng có thể là 1 tiếng nói mạnh mẽ chống lại những thông điệp báo động hơn hoặc có âm mưu có thể gây được tiếng vang đối với những người cảm thấy khó tin tưởng.
Tác động của nghịch cảnh thời thơ ấu cần được xem xét ở tất cả các cấp trong hệ thống y tế. Các nhà chiến lược y tế công cộng gồm các cách tạo được niềm tin chống lại sự kháng thuốc ở 1 số cộng đồng dễ tổn thương nhất, nơi mà ACEs có thể cao hơn.
Điều quan trọng trong ngắn hạn là cung cấp sự trấn an, xây dựng cộng đồng và hiểu được niềm tin cần được xây dựng.
Những trải nghiệm đau buồn trong quá khứ có thể khiến ai đó tránh những điều khiến họ nhớ chấn thương đó. Việc tránh này bảo vệ họ khỏi gặp lại các triệu chứng và hành vi tiêu cực kèm theo. Liệu điều này có dẫn đến việc chần chừ trước 1 điều gì đó có lợi đối với sức khỏe của họ hay không.
Một hạn chế mà các tác giả đề cập đến thường gặp khi sử dụng ACE làm thước đo liên quan đến các hành vi tiêu cực trong tương lai, đó là mọi người tự báo cáo chúng và có thể ghi nhớ hoặc báo cáo sai.
Một hạn chế khác là khả năng thiên vị tự lựa chọn, vì mức độ tham gia là 36,4%, mặc dù điều này không có gì lạ đối với các cuộc khảo sát qua điện thoại không được yêu cầu.
Lo sợ mất kiểm soát có thể là 1 yếu tố khác khiến bạn phải tuân theo các hạn chế, chẳng hạn như cách ly và đeo khẩu trang, giãn cách xã hội hoặc tiêm chủng bắt buộc.
Điều quan trọng là phải hiểu lý do của 1 người do dự tiêm vắc-xin và làm việc với người đó với sự giúp đỡ của cộng đồng của họ, giúp họ tin tưởng và cảm thấy an toàn.
Những người trẻ tuổi có mối quan tâm đặc biệt. Nhóm tuổi từ 18 đến 29 là đối tượng đặc biệt quan tâm.
Các nhà nghiên cứu ước tính tỷ lệ do dự của vắc xin theo chấn thương thời thơ ấu và tuổi tác, và con số dao động từ khoảng 3,5% ở những người từ 70 tuổi trở lên không có kinh nghiệm đối với nghịch cảnh thời thơ ấu đến 38% ở những người từ 18 đến 29 tuổi có trải qua 4 loại chấn thương thời thơ ấu trở lên.
Nghịch cảnh thời thơ ấu có thể là 1 vấn đề đặc biệt quan trọng trong nhóm này. Một số buộc phải hy sinh 1 phần đáng kể cuộc sống thiếu niên của mình và 1 số sẽ phải chịu đựng nhiều hơn những trải nghiệm thời thơ ấu bất lợi do cô lập trong đại dịch, đôi khi trong môi trường gia đình khó khăn. Kết quả nhóm tuổi này và đặc biệt là những người có mức độ ACEs cao là những người có nhiều khả năng do dự vắc xin nhất.
*****
Childhood Trauma May Influence Vaccine Hesitancy: Study
Marcia Frellick
February 01, 2022