Ca ghép thận gần đây đang diễn ra với tốc độ kỷ lục và thành công chưa từng có mặc dù bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ hơn bao giờ hết.
Số liệu ghép thận tại Hoa Kỳ
Trong giai đoạn 2016-2019, các trung tâm của Hoa Kỳ thực hiện thành công cấy ghép thận với gần 77.000 bệnh nhân, tăng gần 25% so với mức trung bình trong 4 năm là khoảng 62.000 bệnh nhân trong suốt giai đoạn 2004-2015.
Sundaram Hariharan, MD, cùng các cộng sự báo cáo trên Tạp chí Y học New England trong 1 đánh giá đối vơi tất cả các ca ghép thận của Hoa Kỳ được thực hiện trong giai đoạn 1996-2019.
Trong suốt 24 năm có mức thấp số lượng và tổn thất ghép cũng như tử vong của bệnh nhân. Đến năm 2018, tỷ lệ tử vong trong năm đầu tiên sau khi cấy ghép gặp với tỷ lệ khoảng 1% ở những bệnh nhân nhận thận từ 1 người hiến tặng còn sống và tỷ lệ khoảng 3% khi nội tạng đến từ 1 người hiến đã tử vong, gần 1 nửa tỷ lệ của trước đó 2 thập kỷ, vào năm 1996. Tỷ lệ mất mảnh ghép trong năm đầu tiên trong năm 2017 cũng bằng khoảng một nửa so với năm 1996, ở khoảng 2% bệnh nhân nhận cơ quan hiến tặng còn sống và khoảng 6% những người nhận được 1 quả thận từ người hiến tặng đã qua đời vào năm 2017.
Hai mươi năm trước, ghép thận là lựa chọn ưu tiên hơn so với lọc máu, và bây giờ chỉ định này rộng rãi hơn. Tỷ lệ sống sót khi được ghép thận tại các trung tâm Hoa Kỳ được cải thiện đều đặn trong 24 năm qua, tỷ lệ sống sót được cải thiện hơn.
Người nhận thận già hơn, béo phì hơn và có bệnh tiểu đường phổ biến hơn
Trong thời gian được nghiên cứu, những người ghép thận trung bình trở nên già hơn và béo phì hơn, và có tỷ lệ bệnh tiểu đường cao hơn; tuổi của những người hiến tặng nội tạng cũng tăng lên. Tỷ lệ bệnh tiểu đường ở những bệnh nhân nhận thận từ người hiến tặng đã qua đời tăng từ 24% trong giai đoạn 1996-1999 lên 36% trong giai đoạn 2016-2019, trong khi tỷ lệ bệnh tiểu đường ở những người nhận nội tạng từ người hiến tặng còn sống tăng từ 25% trong giai đoạn 1996-1999 lên 29% trong giai đoạn 2016-2019.
Michelle A. Josephson, MD, giáo sư y khoa, Đại học Chicago, khả năng sống sót của mảnh ghép được cải thiện, khả năng sống sót lâu dài cũng được cải thiện.
Báo cáo ghi nhận tỷ lệ sống sót sau 10 năm của những người nhận mảnh ghép trong giai đoạn 2008-2011 là 67%, tăng từ 61% trong giai đoạn 1996-1999 và tỷ lệ sống sót của mảnh ghép tổng thể trong 10 năm là 54% trong nhóm 2008-2011, 1 sự cải thiện so với Tỷ lệ 42% ở những bệnh nhân nhận nội tạng của họ trong năm 1996-1999.
Krista L. Lentine, MD, Tiến sĩ, giáo sư y khoa, các nguy cơ biến chứng đáng kể trong cấy ghép tặng với điều trị ức chế miễn dịch mãn tính gồm nhiễm trùng, ung thư, không dung nạp glucose và rối loạn lipid máu.
Cơ sở số liệu gồm tổng số hơn 362.000 ca cấy ghép trong suốt 24 năm được nghiên cứu, với 36% ca cấy ghép liên quan đến nội tạng từ những người hiến tặng còn sống và những bệnh nhân còn lại nhận thận từ những người đã tử vong.
Tỷ lệ cấy ghép từ người hiến sống trì trệ trong 2 thập kỷ, với 22.525 bệnh nhân được cấy ghép trong giai đoạn 2000-2003 và 23.746 ca ghép trong giai đoạn 2016-2019, với tỷ lệ rất giống nhau trong những năm can thiệp.
Sự gia tăng các ca cấy ghép gần đây trong giai đoạn 2016-2019 so với thập kỷ trước phụ thuộc gần như hoàn toàn vào thận từ những người hiến tặng đã qua đời.
Tỷ lệ này đã tăng vọt từ mức tăng chậm, ổn địn trong giai đoạn 1996-2015, khi các ca cấy ghép từ người hiến tặng đã qua đời tăng từ khoảng 30.000 ca trong giai đoạn 1996-1999 lên khoảng 41.000 ca trong giai đoạn 2012-2015, đến mức tăng mạnh hơn khoảng 12.000 ca cấy ghép bổ sung trong thời gian nhiều nhất giai đoạn gần đây, thêm tổng cộng hơn 53.000 ca cấy ghép từ những người hiến tặng đã qua đời trong giai đoạn 2016-2019.
Cấy ghép sử dụng nội tạng từ những người hiến tặng đã qua đời phát triển này. Những yếu tố đó gồm sự gia tăng số lượng bệnh nhân có bệnh thận giai đoạn cuối cần lọc máu, số lượng bệnh nhân được liệt kê để ghép thận tăng lên, các phương pháp tiếp cận mới cho phép các cơ quan từ những người hiến tặng lớn tuổi hơn và những người nhiễm mầm bệnh như virus viêm gan C hoặc HIV, nhiều hơn số lượng người và gia đình đồng ý hiến tạng, và có thể là cuộc khủng hoảng opioid có thể đã dẫn đến việc hiến tạng gia tăng.
Số lượng trung tâm Hoa Kỳ thực hiện cấy ghép thận đã tăng từ dưới 200 vào khoảng 1/4 thế kỷ trước lên khoảng 250 trung tâm ngày nay.
Tỷ lệ sống sót của bệnh nhân và mô ghép sẽ tiếp tục được cải thiện trong tương lai. Mở rộng chi trả bảo hiểm đối với các loại thuốc ức chế miễn dịch trên bệnh ghép thận.
Ghép thận, đặc biệt là từ những người hiến tặng còn sống, mang lại cho bệnh nhân suy thận cơ hội tốt nhất sống lâu dài và cải thiện chất lượng cuộc sống, với chi phí thấp hơn cho hệ thống chăm sóc sức khỏe. Phần lớn trong số hơn 700.000 người có suy thận ở Hoa Kỳ sẽ không có cơ hội được ghép tạng do nguồn cung nội tạng hạn chế. Và nhiều bệnh nhân được ghép thận cuối cùng phải tiếp tục chạy thận vì khả năng sống sót lâu dài của mảnh ghép hạn chế do bệnh thận toàn thân, bệnh nền tái phát, không tuân thủ thuốc hoặc các nguyên nhân khác. Thêm vào đó, nhiều cơ quan có khả năng cấy ghép không được sử dụng.
Đối với nhiều hoặc hầu hết bệnh nhân suy thận, ghép thận là hình thức thay thế thận tối ưu. Kết quả cải thiện ở các bệnh nhân ghép tạng ở Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường khả năng tiếp cận với phương pháp ghép thận đối với tất cả những người suy thận có thể được hưởng lợi từ phương pháp điều trị này.
Tài liệu tham khảo
US Kidney Transplants Grow in Number and Success
Mitchel L. Zoler, PhD
August 24, 2021
Medscape.com.