Chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn đang trở nên phổ biến hơn ở trẻ em và thanh thiếu niên khi tỷ lệ béo phì gia tăng, nhưng nó cũng có thể là 1 yếu tố nguy cơ có thể phòng ngừa được đối với bệnh tim mạch, theo báo cáo mới từ Hội Tim mạch Hoa Kỳ.
Mối liên hệ giữa các yếu tố nguy cơ OSA và CVD ở trẻ em và thanh thiếu niên, đồng thời xem xét các chiến lược chẩn đoán và phương pháp điều trị. Báo cáo nêu lên 1% -6% trẻ em và thanh thiếu niên có OSA, cũng như 60% thanh thiếu niên có béo phì.
Carissa M. Baker-Smith, MD, Trung tâm tim mạch Nemours, Bệnh viện Nhi Alfred I. duPont, Wilmington, Del., mối quan hệ giữa OSA và CVD ở người lớn được ghi nhận.
Chất lượng và thời lượng giấc ngủ của trẻ em là cực kỳ quan trọng đối với sức khỏe tim lâu dài của trẻ. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh tim, khi xuất hiện ở thời thơ ấu, có thể tồn tại đến tuổi trưởng thành.
Tiền sử và khám sức khỏe có thể không mang lại đủ thông tin đáng tin cậy để phân biệt OSA với ngáy ngủ.
Các chỉ định xét nghiệm giấc ngủ với trẻ em, có thể sử dụng các xét nghiệm thay thế như chụp đa ảnh khi ngủ trưa vào ban ngày, đo oxy về đêm và quay video về đêm. Thử nghiệm ngưng thở khi ngủ tại nhà không được khuyến khích ở trẻ em. Bảng câu hỏi sàng lọc, nhưng không phải là công cụ chẩn đoán.
Bệnh nhi được đánh giá OSA cũng nên được kiểm tra về tăng huyết áp và hội chứng chuyển hóa, cũng như hệ thần kinh trung ương và rối loạn hành vi.
Các yếu tố rủi ro đối với OSA ở trẻ em
Các yếu tố nguy cơ đối với OSA, trong số đó có bệnh béo phì, đặc biệt là ở trẻ em dưới 6 tuổi. Các yếu tố nguy cơ khác gồm bệnh đường hô hấp trên và dưới, giảm trương lực cơ, tiền sử cha mẹ tăng sản u tuyến và amidan, dị dạng sọ mặt và rối loạn thần kinh cơ. Sô liệu hạn chế trong việc hỗ trợ trẻ em có bệnh tim bẩm sinh có thể có nguy cơ cao hơn đối với OSA và rối loạn nhịp thở khi ngủ (SDB).
Trẻ em da đen có nguy cơ cao hơn đáng kể và các yếu tố kinh tế xã hội có thể là những yếu tố tiềm ẩn gây nhiễu. Các yếu tố nguy cơ khác gồm viêm mũi dị ứng và bệnh hồng cầu hình liềm.
Béo phì là yếu tố nguy cơ chính đối với OSA ở trẻ em và thanh thiếu niên, và sự hiện diện của chứng viêm gia tăng cũng gây OSA. Steroid có thể làm giảm các triệu chứng này, ngay cả ở trẻ em không béo và cắt bỏ các u tuyến hoặc amidan là 1 olựa chọn để giảm viêm ở trẻ em có OSA.
Béo phì là 1 yếu tố nguy cơ đáng kể đối với rối loạn giấc ngủ và tắc nghẽn ngưng thở khi ngủ, và mức độ nghiêm trọng của chứng ngưng thở khi ngủ có thể được cải thiện bằng các biện pháp can thiệp giảm cân, sau đó cải thiện các yếu tố hội chứng chuyển hóa như độ nhạy insulin. Chúng ta cần nâng cao nhận thức việc tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng có thể ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ ở trẻ em và nhận biết nhịp thở rối loạn khi ngủ có thể góp phần vào nguy cơ tăng huyết áp và bệnh tim mạch sau này.
Trẻ em nghi ngờ bệnh OSA cũng nên được kiểm tra hội chứng chuyển hóa, hệ thần kinh trung ương và rối loạn hành vi.
Mối liên hệ giữa các biến chứng tim mạch với SDB và OSA.
Thời gian ngủ không đủ <5 giờ mỗi đêm ở trẻ em và thanh thiếu niên có liên quan đến tăng nguy cơ tăng huyết áp và cũng liên quan đến tỷ lệ béo phì gia tăng.
Mức HA tăng theo mức độ nghiêm trọng của OSA, mặc dù các tác động có thể thay đổi theo độ tuổi. OSA ở trẻ em đạt cao nhất trong độ tuổi từ 2 đến 8, tương ứng với tần suất cao nhất của phì đại amidan và hạch. Trẻ em từ 10-11 tuổi OSA nghiêm trọng hơn có thể rối loạn điều hòa HA, trong khi thanh thiếu niên lớn hơn phát triển HA bền vững cao hơn. Béo phì có thể là 1 yếu tố gây tăng HA vào ban ngày, trong khi tăng huyết áp vào ban đêm ít phụ thuộc vào béo phì và nhiều hơn vào mức độ nghiêm trọng của OSA.
OSA có liên quan đến huyết áp bất thường ở thanh niên và đặc biệt là huyết áp ban đêm cao hơn và làm mất đi sự suy giảm huyết áp bình thường gặp trong khi ngủ. Trẻ em OSA dường như có HA cao hơn mức kiểm soát trong cả thời gian ngủ và thức, và mức HA tăng lên khi mức độ nghiêm trọng của OSA ngày càng tăng.
Trẻ em có OSA có nguy cơ các vấn đề tim mạch khác cao hơn. Phì đại thất trái có thể là một kết quả thứ cấp. Sự hiện diện của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn ở trẻ em có liên quan đến việc tăng gấp 11 lần nguy cơ LVH ở trẻ em, một mối liên hệ chưa từng thấy khi chỉ riêng chứng ngáy ngủ nguyên phát.
Tài liệu tham khảo
AHA Targets Rising Prevalence of Obstructive Sleep Apnea in Children
Richard Mark Kirkner
August 26, 2021
Medscape.com