Ung thư vú 3 âm tính (TNBC) được đặc trưng bởi sự thiếu biểu hiện của thụ thể estrogen, thụ thể progesterone và thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 ở người (HER2), vẫn là 1 thách thức điều trị vì nó không có mục tiêu sinh học rõ ràng.
Trong quá trình săn lùng mục tiêu, 1 nhóm các nhà nghiên cứu Mỹ có thể tìm thấy 1 điểm có thể đánh thuốc được: con đường truyền tín hiệu oxit nitric cảm ứng (NOS).
Trong 1 thử nghiệm giai đoạn 2 trên 24 bệnh nhân có TNBC di căn, tiến triển tại chỗ và kháng hóa chất, việc sử dụng chất ức chế pan-NOS hạng nhất được gọi là NG-monomethyl-l-arginine (L-NMMA) cùng với docetaxel mang lại hiệu quả tỷ lệ đáp ứng chung là 45,8% (11 trong số 24 bệnh nhân).
Tác giả cấp cao Jenny C. Chang, MD, Viện Nghiên cứu phương pháp Houston, Texas, tỷ lệ phản hồi cao hơn mức dự kiến thông thường 25% đến 30% trong bối cảnh này.
Kết quả được báo cáo trực tuyến ngày 15/12 trên báo Science Translational Medicine.
Trong thử nghiệm không ung thư hóa, không bị mù, 24 bệnh nhân được điều trị bằng L-NMMA ở 20 mg / kg cộng với taxan ở liều hóa trị liệu tiêu chuẩn. Bệnh nhân nhận được tối đa sáu chu kỳ (21 ngày) của sự kết hợp, với L-NMMA được truyền tĩnh mạch trong 2 giờ vào các ngày từ 1 đến 5 của mỗi chu kỳ.
Nhìn chung, 9/11 người có bệnh tiến triển tại chỗ (81,8%) đáp ứng với điều trị, với 4 người (36,4%) đáp ứng hoàn toàn và 5 người (45,5%) đáp ứng 1 phần.
Trong nhóm bệnh di căn, 2 trong số 13 bệnh nhân đáp ứng (15,4%) với điều trị, và hơn một nửa (53,8%) ghi nhận lợi ích lâm sàng, kết hợp tỷ lệ đáp ứng hoàn toàn và 1 phần cũng như bệnh ổn định.
Kết quả TNBC di căn được ghi nhận đối với những bệnh nhân nhận được trung bình 5 phác đồ hóa trị trước đó.
Ngoài ra, độc tính cấp độ 3 được quan sát thấy ở 21% bệnh nhân nhưng không có tác dụng phụ do L-NMMA.
Hoạt động chống khối u rất ấn tượng và đáng khích lệ.
Một thử nghiệm giai đoạn 2 điều tra hiệu quả của thuốc ở những bệnh nhân ít được điều trị trước với TNBC.
Trước đây, L-NMMA được nghiên cứu trong việc xử trí sốc tim trong 1 thử nghiệm ở giai đoạn 3 và có 1 hồ sơ độc tính an toàn. Tuy nhiên, tác nhân này có liên quan đến tăng huyết áp do điều trị.
Với ngăn ngừa tăng huyết áp do L-NMMA, bệnh nhân trong thử nghiệm được dùng amlodipine (10 mg) trong 6 ngày trong mỗi chu kỳ. Aspirin liều thấp bọc trong ruột (81 mg) được dùng đường uống 1 lần mỗi ngày trong suốt quá trình dự phòng huyết khối tắc mạch.
Trong nghiên cứu trước đây, các nhà nghiên cứu xác định các gen RPL39 và MLF2 có liên quan đến khả năng kháng điều trị.
Các phát hiện cũng ghi nhận sự tăng cường hệ thống miễn dịch ở những bệnh nhân đáp ứng với điều trị. Trong chu kỳ 1 (ngày 17), các nhà nghiên cứu báo cáo xu hướng số lượng tế bào T CD4 và CD8 cao hơn ở những người phản hồi so với những người không trả lời. Các xu hướng vẫn nhất quán trong chu kỳ 2 (ngày 38) đối với quần thể tế bào T CD8 và bạch cầu đơn nhân, nhưng không có sự khác biệt có thể quan sát được số lượng tế bào T CD4 giữa 2 nhóm.
So với những người không trả lời, những người phản hồi có số lượng bạch cầu trung tính CD15 + cao hơn và mức arginase thấp hơn, 1 dấu hiệu của các tế bào miễn dịch hỗ trợ khối u. Ngoài ra, các mẫu mô vú từ các bệnh nhân phản hồi có biểu hiện NOS cơ bản cao hơn, biểu hiện này giảm vào cuối đợt điều trị.
Các nhà nghiên cứu đang tích cực ghi nhận những thay đổi kiểu hình này trong quần thể tế bào miễn dịch trong các mô hình chuột tiền lâm sàng và có kế hoạch xác nhận kết quả trong 1 thử nghiệm giai đoạn 3 trong tương lai.
Tên bài:
The Breast Cancer With No Target May Have One: NOS
Nick Mulcahy
December 21, 2021.