Lần đầu tiên, 1 sản phẩm được cung cấp đặc biệt sử dụng trên những bệnh nhân có khối u tế bào biểu mô quanh mạch ác tính không thể cắt bỏ hoặc di căn tại chỗ.
Sản phẩm là công thức tiêm tĩnh mạch của nab-sirolimus (Fyarro) liên kết với albumin dạng hạt nano từ Aadi Biosciences. Công ty thông báo vào ngày 23/11 loại thuốc này được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấp duyệt.
Mặc dù sirolimus và các chất ức chế mTOR đường uống khác được sử dụng ngoài nhãn hiệu đối với tình trạng này, Fyarro là loại thuốc đầu tiên được cấp duyệt đặc biệt trong khối u hiếm gặp, 1 dạng sacôm mô mềm mà công ty ước tính tấn công khoảng 100–300 người ở Mỹ hàng năm, chủ yếu là phụ nữ.
Công ty dự đoán công thức mới của họ sẽ trở thành tiêu chuẩn chăm sóc đối với tình trạng này.
Aadi đang lên kế hoạch cung cấp vào quý đầu tiên năm 2022. Chi phí mua lại bán buôn 1 tháng điều trị sẽ vào khoảng $ 39,000.
Trong công thức mới, mục tiêu của việc liên kết sirolimus với albumin là cung cấp nồng độ thuốc cao hơn đến khối u với ít độc tính hơn.
Sản phẩm được cấp duyệt trên cơ sở kết quả từ thử nghiệm nhãn mở, 1 nhánh, giai đoạn 2 trên 34 bệnh nhân, 31 người trong số họ được đánh giá hiệu quả. Những bệnh nhân này trước đây chưa được điều trị bằng chất ức chế mTOR.
Thử nghiệm, được đặt tên là AMPECT, là nghiên cứu tiền cứu đầu tiên trên các khối u tế bào biểu mô quanh mạch ác tính (mPEComas).
Thời gian sống thêm không có tiến triển trung bình là 10,6 tháng và thời gian sống thêm trung bình toàn bộ là 40,8 tháng. Thời gian đáp ứng trung bình không đạt được sau thời gian theo dõi trung bình là 36 tháng.
Một loạt 40 bệnh nhân PEComa ác tính gần đây được điều trị bằng thuốc ức chế mTOR đường uống, thường là sirolimus, báo cáo tỷ lệ đáp ứng là 40% và thời gian sống thêm trung bình không tiến triển là 9 tháng.
Các nhà điều tra của AMPECT nêu lên nghiên cứu cung cấp bằng chứng ghi nhận nab-sirolimus có thể mang lại lợi ích quan trọng so với các loại thuốc thay thế đường uống.
Nab-sirolimus có đặc điểm dược lý và dược động học khác biệt với khả năng ức chế tăng trưởng khối u cao hơn đáng kể, tích lũy thuốc trong khoang miệng cao hơn và ức chế mục tiêu mTOR lớn hơn, theo nhóm nghiên cứu, dẫn đầu bởi Tiến sĩ Andrew Wagner, MD. , Viện Ung thư Dana-Farber, Boston.
Không có tác dụng phụ cấp 4 hoặc tử vong liên quan đến thuốc trong AMPECT, và không có tín hiệu an toàn của chất ức chế mTOR mới.
Hơn 1/2 số bệnh nhân viêm miệng, nhiễm trùng, mệt mỏi và phát ban. Các bất thường ở phòng thí nghiệm cấp 3 gặp ở hơn 10% gồm giảm bạch cầu lympho, tăng glucose và giảm kali. Có 1 trường hợp từng là chấn thương thận cấp độ 3, hội chứng mạch vành cấp, phù và giảm tiểu cầu.
Khoảng 1/3 số bệnh nhân yêu cầu giảm liều. 3 bệnh nhân ngừng điều trị hoàn toàn vì thiếu máu, viêm bàng quang không do nhiễm trùng và viêm màng phổi.
Các đột biến TSC2 liên quan đến sự kích hoạt quá mức của con đường mTOR, 1 nguyên nhân dẫn đến PEComa ác tính là 1 yếu tố dự đoán mạnh mẽ của phản ứng trong AMPECT, trong khi sự vắng mặt của các đột biến pS6, phản ánh sự thiếu kích hoạt, dự đoán mạnh mẽ phản ứng âm tính.
Độ tuổi trung bình của những người tham gia nghiên cứu là 60 tuổi và hơn 80% bệnh nhân là phụ nữ. Các khối u nguyên phát thường ở tử cung, khung chậu hoặc sau phúc mạc. Phổi là nơi di căn phổ biến nhất.
Liều trong thử nghiệm là 100 mg / m2 IV vào ngày 1 và 8 của chu kỳ 21 ngày, đây là liều lượng được cấp duyệt. Thời gian trung bình đáp ứng nab-sirolimus là 1,4 tháng.
Tên bài:
Novel Sirolimus Formulation Approved for Rare Soft Tissue Sarcoma
M. Alexander Otto, MMS, PA
DISCLOSURES November 24, 2021
Link:
https://www.medscape.com/viewarticle/963593