Theo 1 nghiên cứu được báo cáo trên tạp chí Pediatrics, những đứa trẻ được thụ thai bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) không có nhiều khả năng rối loạn tăng động giảm chú ý hoặc học kém hơn so với những đứa trẻ được thụ thai 1 cách tự nhiên.
Các phát hiện dựa trên số liệu từ hơn 1,5 triệu trẻ em ở Thụy Điển, cung cấp sự đảm bảo bổ sung sự phát triển thần kinh của trẻ sau khi sử dụng ART, theo tác giả nghiên cứu Chen Wang, MPH cùng các đồng nghiệp, Viện Karolinska ở Stockholm.
Kết quả thấy tầm quan trọng của việc tính đến vô sinh cơ bản khi nghiên cứu tính an toàn của ART.
Sự khác biệt lớn trong thời thơ ấu giữa những đứa trẻ được thụ thai bằng ART và những đứa trẻ được thụ thai 1 cách tự nhiên. Kết quả phát triển thần kinh lâu dài, gồm ADHD và kết quả học tập ở trường, các nhà điều tra sử dụng số liệu trong sổ đăng ký dân số Thụy Điển từ trẻ em sinh từ 1986 đến 2012.
Tình trạng vô sinh và việc sử dụng ART ngày càng trở nên phổ biến trong suốt thời gian nghiên cứu. Trong khoảng thời gian từ 1986 đến 2001, 7% số ca sinh là của các cặp vợ chồng vô sinh, và 13% số ca sinh này được điều trị ARV. Từ năm 1996 đến năm 2012, 11% số ca sinh là của các cặp vợ chồng hiếm muộn và 26% số ca sinh này đạt được điều trị ARV.
Những cặp vợ chồng vô sinh thường lớn tuổi hơn và sau kết hôn hoặc sống chung, so với những cặp vợ chồng chưa từng vô sinh. Trong số các cặp vợ chồng hiếm muộn, những người thụ thai bằng ART trung bình có độ tuổi và trình độ học vấn cao hơn và phụ nữ ít hút thuốc hơn.
Tỷ lệ tích lũy của ADHD ở tuổi 15 là 6,2% ở trẻ em được thụ thai bằng ART, 7,3% ở trẻ em của các cặp vợ chồng hiếm muộn không sử dụng thuốc ARV và 7,1% ở trẻ em sinh bởi các cặp vợ chồng không được biết đến vô sinh.
Trẻ em được điều trị ARV có nguy cơ ADHD thấp hơn (tỷ lệ nguy cơ, 0,83). Nhưng sau khi điều chỉnh các đặc điểm của cha mẹ và các yếu tố sức khỏe, các nhà nghiên cứu nhận thấy nguy cơ ADHD tăng nhẹ với ART, với nhịp tim điều chỉnh là 1,05-1,07.
Khi các nhà nghiên cứu tập trung vào những đứa trẻ được sinh bởi các cặp vợ chồng hiếm muộn, ART có liên quan đến việc giảm nguy cơ ADHD (HR được điều chỉnh, 0,80), so với việc thụ thai tự nhiên.
Các nhà nghiên cứu cũng so sánh các phương pháp ART, gồm tiêm tinh trùng vào bào tương so với thụ tinh trong ống nghiệm tiêu chuẩn (IVF), và chuyển phôi tươi so với chuyển phôi đông lạnh. Các thủ tục khác nhau không liên quan đến các rủi ro khác nhau đáng kể.
Các mô hình đối với thành tích ở trường nói chung tương tự như các mô hình với ADHD.
Trong quá trình theo dõi rộng rãi nhóm thuần tập sinh trên toàn quốc này, nguy cơ mắc ADHD thấp hơn và kết quả tổng thể ở trường tốt hơn 1 chút ở trẻ được hình thành bằng ART, so với tất cả những trẻ khác. Khi so sánh được giới hạn đối với con cái của các cặp vợ chồng hiếm muộn, không có sự khác biệt ghi nhận được.
Barbara Luke, ScD, MPH, giáo sư, Đại học Michigan State, East Lansing, nghiên cứu được thiết kế tốt và kéo dài hơn 25 năm ART, trong đó các phương pháp điều trị thay đổi đáng kể.
Thành tích học tập ở trẻ em thụ thai bằng IVF ở Texas. Kết quả của nghiên cứu Thụy Điển phù hợp với các nghiên cứu của Hoa Kỳ và nói chung là đáng yên tâm.
Các yếu tố của cha mẹ có thể đóng 1 vai trò trong việc hiểu kết quả học tập.
Trong các nghiên cứu kết quả học tập lớp 3 và lớp 6, sự khác biệt giữa các nhóm nguồn gốc chủng tộc / gốc Tây Ban Nha, giới tính và tuổi mẹ.
Tên bài:
Reassuring Rates of ADHD After Assisted Reproductive Techniques
Jake Remaly
July 08, 2021
Medscape.com