Đánh giá DNA khối u lưu hành (ctDNA) ở bệnh nhân ung thư đường mật di căn (BTC) có thể xác định những bệnh nhân có kết quả sống sót tồi tệ hơn khi được điều trị bằng hóa trị liệu dựa trên Platilium. Nghiên cứu được cung cấp dưới dạng bản in trước trên medRxiv vào ngày 2/11 và vẫn chưa được đánh giá ngang hàng.
BTC thường xuất hiện ở giai đoạn nặng khi chỉ có 20% khối u có thể cắt bỏ được. Tỷ lệ sống sót tổng thể trong 5 năm là khoảng 4% ở những bệnh nhân không thể cắt bỏ được và kết quả đạt được với hóa trị liệu đầu tiên là rất khiêm tốn. Hầu hết bệnh nhân tiến triển trong vòng 1 năm.
Ngày càng có nhiều quan tâm đến việc sử dụng cấu hình gen khối u thế hệ tiếp theo và sinh thiết lỏng xác định các thay đổi di truyền có thể gắn mục tiêu. Các kết quả hiện tại ghi nhận ctDNA có thể được sử dụng lập hồ sơ bộ gen và phân tầng bệnh nhân trong các thử nghiệm ngẫu nhiên, tiền cứu.
Thiết kế nghiên cứu
Với 67 bệnh nhân có BTC di căn trải qua xét nghiệm ctDNA trước khi hóa trị liệu dựa trên Platilium bậc 1 trong khoảng thời gian từ tháng 6 / 2016 đến tháng 6 / 2020. Biểu đồ bệnh nhân được xem xét đáp ứng với liệu pháp và tỷ lệ kiểm soát bệnh.
Tần số alen biến thể (VAF), hoặc số phân tử đột biến trên tổng số phân tử kiểu dại tại 1 vị trí bộ gen cụ thể, được tính toán từ các mẫu ctDNA. Mối quan hệ giữa tần số alen dòng trội (DCAF) và tỷ lệ sống sót tổng thể và không tiến triển được xác định.
Kết quả chính
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 67 tuổi, và 80,6% ung thư đường mật trong gan. 10,4% ung thư đường mật ngoài gan được chẩn đoán và 9% bị ung thư túi mật. Đa số (68,6%) bệnh nhân được dùng cisplatin cộng với gemcitabine, trong khi gemcitabine được kết hợp với 1 liệu pháp dựa trên Platilium khác, tỷ lệ này là 16,4%. Tỷ lệ kiểm soát bệnh là 64,4%.
Phân tích DCAF thấy TP53, KRAS, FGFR2, ARID1A, STK11 và IDH1 là những gen có tần số cao nhất. DCAF trung bình là 3%.
DCAF> 3% có liên quan đến thời gian sống thêm không tiến triển xấu hơn (PFS) ở mức trung bình 4,7 tháng so với 7,7 tháng đối với DCAF ≤3% và thời gian sống thêm tổng thể xấu hơn đáng kể ở mức trung bình 10,8 tháng so với 18,8 tháng.
Phân tầng DCAF thành các phần tư ghi nhận phần tư cao nhất, DCAF ≥10%, có liên quan đến PFS kém hơn đáng kể, ở mức 3,0 tháng so với 7,0 tháng đối với phần tư thấp nhất, và tỷ lệ sống chung kém hơn đáng kể, ở mức 7,0 tháng so với 22,2 tháng.
Sau khi điều chỉnh theo tuổi và giới tính của bệnh nhân, vị trí di căn, kích thước của tổn thương lớn nhất, khối u nguyên phát và CA19-9, mỗi 1% tăng ctDNA có liên quan đến tỷ lệ nguy cơ tử vong là 13,07.
Nghiên cứu giới hạn bởi kích thước mẫu nhỏ và là 1 trung tâm duy nhất, phân tích hồi cứu. Thêm vào đó, việc sử dụng bảng gen được gắn mục tiêu. Có rất ít bệnh nhân có các chẩn đoán khác ngoài khối u ống nội gan.
Tài liệu tham khảo
ctDNA May Predict Worse Metastatic Biliary Tract Cancer Progn
Liam Davenport for Medscape
December 20, 2021.