Hồ sơ chuyển hóa của khối u ung thư đại trực tràng có thể cung cấp manh mối giúp tiên lượng của bệnh nhân, theo 1 phân tích mô sản xuất asparagin trong khối u có liên quan đến khả năng sống sót tổng thể kém và không tái phát, nhưng chỉ ở phụ nữ.
Theo tác giả Xinyi Shen, MPH, Trường Y tế Công cộng Yale, Đại học Yale, New Haven, Connecticut, cùng các đồng nghiệp viết trong 1 nghiên cứu được báo cáo: Sự chuyển hóa khối u theo giới tính là 1 yếu tố quan trọng giúp hiểu được sự khác biệt trong tiên lượng của bệnh nhân và sự khác biệt có khả năng gặp trong đáp ứng điều trị. Ngày 1 / 11 kết quả vẫn chưa được đánh giá ngang hàng.
Theo đó, các nhà nghiên cứu khuyến cáo việc thiết kế các phương pháp tiếp cận y học chính xác xem xét cả chuyển hóa khối u và giới tính có được những phát hiện mạnh mẽ hơn trong các thử nghiệm lâm sàng và cải thiện kết quả của bệnh nhân.
Tiên lượng của ung thư đại trực tràng, nguyên nhân thứ 3 gây tử vong do ung thư ở Hoa Kỳ, phụ thuộc vào các yếu tố chính, chẳng hạn như giai đoạn xuất hiện, vị trí khối u nguyên phát, chỉ số khối cơ thể và bệnh tiểu đường kèm theo, cũng như đột biến gen và di truyền khác sự thay đổi. Sự khác biệt liên quan đến giới tính trong tiên lượng cũng xuất hiện trong những năm gần đây, mặc dù bệnh nhân chưa nhận được các liệu pháp điều trị dành riêng đối với yếu tố giới tính.
Ngoài ra, cấu trúc trao đổi chất của khối u, được đo qua nước tiểu và mẫu mô, được chứng minh là có liên quan đến khả năng sống sót và tái phát của ung thư. Một nghiên cứu trước đây của các nhà nghiên cứu có kết quả các kiểu phụ chuyển hóa dành riêng với giới tính trong các khối u ung thư đại trực tràng có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của khối u và đáp ứng điều trị.
Các nhà nghiên cứu đánh giá các mẫu mô đông lạnh sau khi phẫu thuật cắt bỏ từ 197 bệnh nhân ung thư ruột kết giai đoạn I – III bên phải hoặc bên trái được điều trị từ năm 1991 đến 2000.
Thông tin tuổi, giới tính của bệnh nhân, vị trí giải phẫu của khối u, tiền sử hóa trị, và giai đoạn lâm sàng được ghi nhận, và sự hiện diện của chất chuyển hóa 91 được xác định thông qua tương tác ưa nước sắc ký lỏng khối phổ và khối phổ sắc ký lỏng pha đảo ngược.
Nghiên cứu nêu lên trong thời gian theo dõi 74,8 tháng, tỷ lệ sống thêm 5 năm tỷ lệ nghịch với tuổi già, giai đoạn lâm sàng tiến triển và việc sử dụng hóa trị liệu. Không có sự khác biệt đáng kể liên quan đến giới tính trong thời gian sống thêm tổng thể, 74,3 tháng ở nam và 83,2 tháng ở nữ (P = 0,18).
Chỉ sử dụng hóa trị liệu có liên quan đáng kể đến khả năng sống sót sau 5 năm không tái phát, 1 lần nữa, không có sự khác biệt đáng kể liên quan đến giới tính ở 77,5 tháng ở nam và 84,0 tháng ở nữ (P = 0,48).
Với 11 trong số các chất chuyển hóa khối u được nghiên cứu có sự khác biệt đáng kể về giới tính liên quan đến tỷ lệ sống thêm 5 năm, trong khi 5 chất chuyển hóa có liên quan đến sự khác biệt của giới tính trong tỷ lệ sống không tái phát. Tỷ lệ sống sót tổng thể và tỷ lệ sống không tái phát là các tương tác liên quan đến giới tính với asparagin và serine.
Phân tích ghi nhận có mối liên quan đáng kể giữa con đường tổng hợp asparagine được xúc tác (ASNS) và tiên lượng ung thư đại trực tràng với sự phong phú của asparagine có liên quan đáng kể đến cả tỷ lệ sống sót tổng thể và không tái phát sau khi điều chỉnh theo giai đoạn lâm sàng, tiền sử hóa trị, tuổi tác, vị trí giải phẫu, và các chất chuyển hóa liên quan đến biểu hiện ASNS.
Ở phụ nữ, việc tăng lượng asparagin có liên quan đến việc giảm đáng kể tỷ lệ sống sót chung với tỷ lệ nguy cơ tử vong là 6,39 (P = 0,04) và tỷ lệ sống không tái phát với tỷ lệ nguy cơ tiến triển là 4,36 (P = 0,01). Ở nam giới, việc tăng mức độ asparagin có liên quan ngược lại với tỷ lệ sống sót tổng thể tốt hơn với tỷ lệ nguy cơ là 0,57 (P = 0,02).
Mối quan hệ tương tự giữa chuyển hóa khối u và tiên lượng xấu hơn ung thư đại trực tràng được thấy ở phụ nữ đối với tổng hợp lysophospholipid và polyamine.
Các giới hạn của nghiên cứu, các tác giả nêu lên gồm số lượng các sự kiện liên quan đến cỡ mẫu và bệnh nhân thuộc nhiều loại, chẳng hạn như giai đoạn lâm sàng và vị trí giải phẫu. Hơn nữa, 1 số yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn không cung cấp trong phân tích trên hồ sơ lâm sàng.
Tên bài:
Asparagine Metabolism in Colorectal Cancer Predicts Survival in Female Patients
Liam Davenport.