Nghiên cứu mới thấy những bệnh nhân dưới 60 tuổi có đột quỵ và sau đó co giật có nguy cơ có chứng sa sút trí tuệ tăng lên đáng kể.
Kết quả của 1 nghiên cứu lớn thấy những người trẻ sống sót sau đột quỵ sau đó phát triển các cơn co giật có nguy cơ phát triển chứng sa sút trí tuệ tăng gấp 2 lần so với những người không có triệu chứng co giật.
Tỷ lệ đột quỵ gia tăng ở thanh niên
Tỷ lệ đột quỵ với những bệnh nhân dưới 60 tuổi đang tăng lên. Một phần là do ít vận động, có thể dẫn đến tăng cân, tiểu đường và cao huyết áp.
Co giật là 1 biến chứng thường xuyên của đột quỵ, và những bệnh nhân đột quỵ trẻ tuổi xuất hiện nhiều cơn co giật hơn những người lớn tuổi hơn.
Các nhà nghiên cứu sử dụng 1 cơ sở số liệu lớn trên toàn quốc đánh giá vai trò của các cơn co giật khởi phát muộn đối với sự phát triển sau đó của chứng sa sút trí tuệ ở những người sống sót sau đột quỵ. Các nhà nghiên cứu ghi danh 23.680 trường hợp đột quỵ trong số bệnh nhân từ 18 đến 60 tuổi từ ngày 1/1/2006 đến ngày 31/12/2009. Trong số này gồm 20.642 bệnh nhân đột quỵ do thiếu máu cục bộ và 3038 đột quỵ do xuất huyết.
Đối với tất cả các trường hợp đột quỵ, tuổi trung bình của những người tham gia là 49,8 tuổi; đối với đột quỵ do thiếu máu cục bộ, tuổi trung bình là 50,2 tuổi; và đối với đột quỵ xuất huyết, đó là 47,0 năm.
Lúc ban đầu, những người tham gia không có sa sút trí tuệ, u não, tiếp xúc với chất độc, chấn thương sọ não hoặc các bệnh truyền nhiễm thần kinh.
Những người tham gia được đăng ký liên tục ít nhất 1 năm trước khi được chẩn đoán đột quỵ và trong 5 năm sau đó. Phân tích chỉ gồm những bệnh nhân không có yêu cầu bảo hiểm liên quan đến động kinh được thực hiện trong vòng 1 năm kể từ ngày lập chỉ mục; điều này làm tăng khả năng xuất hiện các cơn co giật do đột quỵ.
Tỷ lệ co giật tích lũy trong nhóm này là 6,7% đối với tất cả các trường hợp đột quỵ, 6,4% đối với đột quỵ do thiếu máu cục bộ và 8,3% đối với đột quỵ xuất huyết.
Kết quả của sự quan tâm là mất trí nhớ trong thời gian theo dõi (ngày 1/1/2010 đến ngày 31/12/2014). Các nhà nghiên cứu so sánh tỷ lệ chứng sa sút trí tuệ, có và không có co giật giữa các bệnh nhân đột quỵ.
Tỷ lệ tích lũy của chứng sa sút trí tuệ lần lượt là 1,3%, 1,4% và 0,9% đối với tất cả các trường hợp đột quỵ, đột quỵ do thiếu máu cục bộ và đột quỵ xuất huyết.
Sau khi điều chỉnh 1 số biến số nhân khẩu học, tình trạng y tế và sử dụng thuốc chống co giật, bệnh nhân đột quỵ xuất hiện cơn động kinh có nguy cơ sa sút trí tuệ cao hơn so với những người không có động kinh.
Mối liên quan có ý nghĩa đối với tất cả các trường hợp đột quỵ và đột quỵ do thiếu máu cục bộ, nhưng nó chỉ có ý nghĩa ranh giới đối với đột quỵ xuất huyết.
Sàng lọc bệnh nhân đột quỵ trẻ tuổi bằng điện não đồ (EEG) phát hiện phóng điện não bộ qua vùng có thể xác định những người có nguy cơ.
Tình huống lý tưởng sẽ là sàng lọc những người trẻ sống sót sau cơn đột quỵ tìm dấu hiệu sinh học của cơn co giật và dùng thuốc chống động kinh. Ý tưởng là ngăn chặn sự phát triển của cơn co giật đầu tiên.
Việc sàng lọc tương đối dễ dàng. Điện não đồ không đắt và được sử dụng rộng rãi.
Trong các mô hình động vật, sự phóng điện dạng epileptiform có liên quan đến sự suy giảm nhận thức, và dường như cũng có 1 mối liên hệ ở con người; bệnh nhân có bệnh Alzheimer có nguy cơ co giật cao gấp 8 đến 10 lần.
Tài liệu tham khảo
Seizures Tied to a Doubling of Dementia Risk in Young Survivors
Pauline Anderson
October 26, 2021
Link: http://www.medscape.com/viewarticle/961582