Hầu hết các bệnh nhi được chẩn đoán chứng rối loạn viêm hoặc tự miễn dịch đều thiếu bằng chứng của phản ứng miễn dịch với vắc-xin viêm gan B, theo kết quả từ 1 nghiên cứu hồi cứu đơn trung tâm.
Viêm gan B là 1 bệnh nhiễm vi-rút phổ biến với 2 tỷ người trên toàn thế giới có bằng chứng lây nhiễm trước đó hoặc hiện tại và nó có thể biểu hiện như 1 bệnh lây nhiễm cấp tính hoặc mãn tính, hoặc với các di chứng mãn tính, gồm xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan, theo Alexandra Ritter, Hội Da liễu Nhi khoa. 1 loạt vắc xin 3 liều được khuyến khích bắt đầu từ khi mới sinh và vào năm 2016, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh báo cáo 90,5% trẻ em Hoa Kỳ từ 19-35 tháng tuổi hoàn thành loạt vắc xin này.
Trong khi loạt vắc-xin này cung cấp khả năng bảo vệ ở những người khỏe mạnh hơn 95% thời gian, phản ứng giảm được ghi nhận ở các nhóm trẻ em gồm những trẻ có các bệnh viêm nhiễm và tự miễn dịch.
Tỷ lệ phần trăm bệnh nhi có bệnh viêm nhiễm hoặc bệnh tự miễn dịch thiếu bằng chứng khả năng miễn dịch sau loạt vắc xin viêm gan B. Nghiên cứu xem xét số liệu 160 bệnh nhân trong độ tuổi từ 6 tháng đến 21 tuổi, được chẩn đoán bệnh tự miễn dịch hoặc bệnh tự viêm, hoặc bệnh viêm ruột (IBD), và có bằng chứng về việc chủng ngừa và xét nghiệm huyết thanh trước khi bắt đầu điều trị bằng thuốc ức chế miễn dịch.
Trong số 160 bệnh nhân, 100 (63%) IBD, 34 (21%) bệnh tự miễn, 26 (16%) bệnh tự viêm, 89 (56%) là nữ và tuổi trung bình của họ là 15 tuổi.
Sự khác biệt trong thử nghiệm được sắp xếp giữa 3 nhóm bệnh nhân. 88,2% bệnh nhân tự miễn được xét nghiệm kháng nguyên bề mặt (HBsAg) viêm gan B, so với 96,15% bệnh nhân tự viêm và 67% bệnh nhân IBD, trong khi 76,47% bệnh nhân tự miễn có kháng thể viêm gan B ( xét nghiệm anti-HBc), so với 88,46% bệnh nhân bệnh tự viêm và 31% bệnh nhân IBD.
Với 82,35% bệnh nhân bệnh tự miễn được xét nghiệm HBsAg, so với 100% bệnh nhân bệnh tự viêm và 94% bệnh nhân IBD.
Trong số 148 bệnh nhân ghi danh và hoàn thành xét nghiệm HBsAg trước khi bắt đầu dùng thuốc ức chế miễn dịch, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê đối với tỷ lệ phần trăm bệnh nhân thấy bằng chứng đáp ứng miễn dịch với vắc-xin viêm gan B (32,14% trong số bệnh nhân bệnh tự miễn, 34,62% ở bệnh nhân bệnh tự viêm và 31,91% ở bệnh nhân IBD). Kết hợp, 67,57% xét nghiệm âm tính với kháng thể bề mặt viêm gan B.
CDC và Nhóm đồng thuận châu Âu đối với miễn dịch viêm gan B khuyến cáo mức giới hạn lớn hơn 10 mIU / mL. Những người đạt được miễn dịch được bảo vệ đến 20 năm do trí nhớ miễn dịch, ngay cả khi mức kháng thể của họ sau đó giảm xuống. Một số trường hợp hiếm hoi những người có đủ năng lực miễn dịch có bằng chứng lây nhiễm không triệu chứng thoáng qua khi nồng độ kháng thể giảm xuống. Bệnh mãn tính chỉ được ghi nhận đối với trẻ sinh từ mẹ dương tính. Những bệnh nhân chạy thận nhân tạo, những trường hợp lây lây nhiễm kể trên mặt lâm sàng được ghi nhận khi mức kháng thể giảm.
CDC khuyến cáo chỉ xét nghiệm sau tiêm chủng trẻ sơ sinh có mẹ dương tính, nhân viên y tế có nguy cơ cao, bệnh nhân chạy thận nhân tạo, người nhiễm HIV và những người suy giảm miễn dịch khác và bạn tình của người nhiễm bệnh mãn tính sử dụng chung kim tiêm. Quá trình này được hoàn thành sau 1-2 tháng kể từ liều vắc-xin thứ 3, và những người có mức kháng thể dưới 10 mIU / mL nên được tiêm chủng lại. Một số nhóm không đáp ứng với loạt vắc-xin, liều lượng thay thế và vắc-xin tiêm trong da được nghiên cứu và thấy có hiệu quả đối với 1 số nhóm nhất định.
Việc theo dõi các cá nhân có suy giảm miễn dịch và tiêm các mũi tăng cường, có những khuyến cáo trái ngược nhau. CDC khuyến cáo xét nghiệm hàng năm và tiêm nhắc lại khi nồng độ giảm xuống dưới 10 mIU / mL chỉ ở những bệnh nhân chạy thận nhân tạo, trong khi Nhóm đồng thuận Châu Âu khuyến cáo xét nghiệm 6-12 tháng 1 lần đối với những người uy giảm miễn dịch và những người tăng cường khi nồng độ của họ giảm xuống dưới 10 mIU / mL.
Trong 1 nghiên cứu tương tự xem xét bằng chứng khả năng miễn dịch đối với trẻ em có bệnh mô liên kết đang điều trị ức chế miễn dịch, 50% không có bằng chứng kháng thể bảo vệ, so với 96% ở nhóm chứng. Trong nghiên cứu đó, 1 mũi tiêm nhắc lại được tiêm và nồng độ kháng thể bảo vệ được tìm thấy khi theo dõi.
Tên bài:
Hep B Vaccine Response Vary Among Youth With Inflammatory, Autoimmune Disorders
Doug Brunk
August 13, 2021
From Medscape.com