Xử lý trước với L-arginine đường uống giúp tăng cường tác dụng của xạ trị ở những bệnh nhân di căn não của các khối u rắn, theo 1 nghiên cứu được báo cáo trên Science Advances. Điều này giúp kiểm soát tại chỗ bệnh tốt hơn và có thể cung cấp 1 cách tối ưu hóa tác dụng của bức xạ, hoặc các phương pháp điều trị khác, đối với các khối u nguyên phát hoặc di căn.
Chi tiết nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với sự hợp tác của các nhà nghiên cứu tại các địa điểm khác ở Hoa Kỳ và Argentina, kết hợp nghiên cứu trên chuột thí nghiệm với các nghiên cứu chuyển hóa, mạch máu và nghiên cứu sơ bộ hiệu quả và độ an toàn ở bệnh nhân.
Trong thử nghiệm lâm sàng chính giai đoạn 1/2, 63 bệnh nhân di căn não liên quan đến các khối u rắn, chẳng hạn như ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (51%), ung thư vú thể 3 âm tính (21%) và u ác tính (8%) được phân ngẫu nhiên nhận 10 g L-arginine uống hoặc giả dược trước mỗi phần xạ trị. Phác đồ xạ trị toàn bộ não gồm tổng liều 32,0 Gy, được thực hiện trong 20 phần, sau đó là tăng 22,4 Gy tuân theo cùng 1 lịch trình phân chia. Các nhà điều tra sử dụng thử nghiệm chính xác của Fisher hoặc thử nghiệm Cox-Mantel so sánh các phản ứng.
Đa số bệnh nhân có khối u nguyên phát không kiểm soát được, nhiều vị trí di căn và nhiều di căn não. Thời gian theo dõi trung bình sau khi kết thúc đợt điều trị là 5 tháng.
L-arginine được dung nạp tốt và không gây các tác dụng phụ ngắn hạn hoặc dài hạn (hơn 6 tháng). Tỷ lệ đáp ứng tổng thể cao hơn đáng kể ở nhóm L-arginine so với nhóm giả dược, cũng như tỷ lệ đáp ứng triệu chứng.
Các đáp ứng thần kinh hoàn chỉnh có khả năng cao hơn gấp 3 lần ở những bệnh nhân được điều trị trước với L-arginine so với những bệnh nhân được điều trị trước với giả dược, mặc dù sự khác biệt không có ý nghĩa. Và ở thời điểm 6 tháng, bệnh nhân ở nhóm sử dụng L-arginine có nguy cơ không tiến triển thần kinh cao hơn gấp 4 lần so với bệnh nhân ở nhóm giả dược.
Thời gian sống thêm trung bình không có tiến triển ở nhóm L-arginine lâu hơn so với nhóm giả dược 5 so với 2 tháng, mặc dù hầu hết bệnh nhân trong hóm L-arginine tử vong do sự tiến triển của bệnh ngoại sọ.
Khi được sử dụng trong những điều kiện này, L-arginine ở liều dược lý là 1 phương pháp điều trị an toàn và hiệu quả, vì nó không làm tăng tác dụng phụ của xạ trị.
Khối u cần chất dinh dưỡng
L-arginine, thường được sử dụng như 1 chất bổ sung trong chứng rối loạn cương dương hoặc thiếu ham muốn tình dục, là chất nền của enzym tổng hợp oxit nitric, sản xuất oxit nitric trong mô. Nitric oxide là 1 chất khí được chứng minh, ở nồng độ tương đối cao, có thể gây hóa trị và nhạy cảm phóng xạ trong các mô hình tiền lâm sàng và ở những bệnh nhân có khối u rắn.
Nghiên cứu này giúp làm rõ vai trò của oxit nitric. Các khối u trở nên “nghiện” 1 số chất dinh dưỡng, chẳng hạn như glucose, mà chúng sử dụng trong phát triển, sản sinh các tế bào ung thư khác và sửa chữa 1 số phân tử tổn thương do điều trị.
Tế bào ung thư tiêu thụ glucose và giải phóng lactate dưới dạng sản phẩm phụ. Chúng cũng biểu hiện các protein như nitric oxide synthase 2, chúng sử dụng trong việc duy trì bản thân và tăng sinh, mặc dù hoạt động quá nhiều của enzym này có thể độc hại và gây căng thẳng tế bào.
L-arginine làm là tăng cường kích thích nitric oxide synthase 2 và gây căng thẳng tế bào, khiến tế bào ung thư ngừng tiêu thụ glucose (và giải phóng lactate) và mất khả năng tự sửa chữa và tăng sinh. Nếu tại thời điểm này, tiến hành xạ trị, tác động của các tia này được khuếch đại và khiến tế bào ung thư chết.
Sự hiểu biết cơ chế này có thể được sử dụng tăng lợi ích tối đa từ L-arginine.
Căng thẳng tế bào mà L-arginine gây trên các tế bào ung thư kéo dài, dù ít hay nhiều, 1 giờ đó là thời điểm nên tiến hành bức xạ. Nó cũng hữu ích khi hiểu tại sao có sự nhạy cảm ở các tế bào ung thư mà không phải ở các tế bào khác. Điều này giúp giảm nguy cơ ảnh hưởng độc hại mà không làm thay đổi hoạt động của các tế bào miễn dịch tấn công khối u. Trên thực tế, nghiên cứu cách sử dụng cơ chế này tăng tác dụng của liệu pháp miễn dịch thay vì sử dụng bức xạ.
Khoảng 90% bệnh nhân di căn não do ung thư vú và ung thư phổi thể hiện nitric oxide synthase 2 và sẽ là ứng cử viên với quá trình nhạy cảm phóng xạ với L-arginine. Tuy nhiên, đây là 1 thử nghiệm bằng chứng khái niệm. Cần có thêm bằng chứng trước khi việc xử lý trước trở thành 1 phần của thực hành lâm sàng thường quy.
Những phát hiện sẽ phải được nhân rộng trên quy mô lớn hơn trước khi có thể đưa đến kết luận trong bối cảnh lâm sàng. Tuy nhiên, thú vị không chỉ phương pháp điều trị liên quan đến xạ trị mà còn với các phương thức khác.
Các thử nghiệm lâm sàng ở những bệnh nhân có các đặc điểm khác (chẳng hạn như tái phát di căn sau phẫu thuật) và với các phương thức xạ trị khác nhau có thể sẽ bắt đầu. Các khối u khác biểu hiện tổng hợp oxit nitric 2 hoặc giảm sản xuất lactate sau khi sử dụng L-arginine (1 thứ có thể được xác định không xâm lấn bằng MRI) cũng có thể được hưởng lợi từ phương pháp này, gồm các khối u di căn ở những nơi khác và các khối u nguyên phát trong đó xạ trị đóng vai trò điều trị, mặc dù cần có các nghiên cứu khẳng định điều này.
Nó cũng có thể hữu ích trong cải thiện kết quả của phẫu thuật-xạ trị.
Tuy nhiên, cần thêm thông tin những người tham gia trong 2 nhóm nghiên cứu chẳng hạn như tuổi, điểm tình trạng chức năng của Karnofsky và số lượng di căn não mà mỗi người. Tất cả đều là các yếu tố tiên lượng cần thiết trong đánh giá toàn diện kết quả thử nghiệm lâm sàng.
Tài liệu tham khảo
L-arginine Enhances Effect of Radiation on Brain Metastases
Matías A. Loewy
November 17, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/963158.