Nguy cơ tái phát các biến cố liên quan đến xương ở bệnh nhân đa u tủy tương tự với lịch dùng thuốc bisphosphonate tiêm tĩnh mạch (IV) từ 4 tuần đến lâu hơn 12 tuần, theo 1 nghiên cứu mới nêu lên.
Các nhà nghiên cứu kiểm tra số liệu 4.281 người lớn mới được chẩn đoán bệnh đa u tủy trong Cơ sở số liệu IBM MarketScan từ ngày 1/1/2009 đến ngày 30/9/2015.
Tất cả bệnh nhân đều được tiêm bisphosphonates; mục tiêu nghiên cứu chính là xác định nguy cơ tái phát các biến cố liên quan đến xương liên quan đến khoảng thời gian dùng thuốc được khuyến cáo 4 tuần hoặc khoảng thời gian dùng thuốc kéo dài từ 5-8 tuần, 9-12 tuần hoặc lâu hơn 12 tuần.
Sau thời gian theo dõi trung bình từ chẩn đoán là 13,3 tháng, 2,567 (60%) bệnh nhân trải qua ít nhất 1 sự kiện liên quan đến xương, được các nhà nghiên cứu xác định là tăng calci huyết, chèn ép tủy sống, gãy xương bệnh lý hoặc các tình trạng khác cần phẫu thuật hoặc xạ trị phần xương ảnh hưởng.
So với dùng bisphosphonat tiêm tĩnh mạch 4 tuần 1 lần, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nguy cơ các biến cố liên quan đến xương khi dùng liều 5-8 tuần (tỷ lệ nguy cơ, 1,00), 9-12 tuần (HR, 0,95) hoặc lâu hơn 12 tuần (HR, 0,90), theo các nhà nghiên cứu báo cáo trong JAMA Network Open.
Nghiên cứu trong thế giới thực này, cũng như các thử nghiệm lâm sàng trên hầu hết bệnh nhân ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt, có thể tiêm bisphosphonat tiêm tĩnh mạch an toàn với tần suất ít hơn 4 tuần 1 lần, gồm tối đa 12 tuần 1 lần, mà không làm tăng đáng kể nguy cơ của 1 sự kiện liên quan đến bộ xương, tác giả nghiên cứu cao cấp Gregory Calip, phó giáo sư, College of Pharmacy, Đại học Illinois, Chicago.
Mặc dù tần suất dùng thuốc tối ưu bisphosphonates trong điều trị bệnh xương liên quan đến ung thư chưa được biết, nhưng việc khám bệnh thường xuyên hơn với truyền dịch có thể là gánh nặng của bệnh nhân ung thư.
Giữa những lo ngại về sự an toàn của bệnh nhân, chẳng hạn như nguy cơ gia tăng bệnh tật nghiêm trọng liên quan đến COVID-19 với những bệnh nhân có khối u ác tính huyết học, việc hiểu rõ các phương pháp điều trị ung thư hỗ trợ như bisphosphonates có thể trì hoãn là rất quan trọng đối với việc đưa đến quyết định lâm sàng.
Một hạn chế của thiết kế nghiên cứu quan sát là khả năng phân loại sai hoặc gây nhiễu không được đo lường ảnh hưởng đến kết quả.
Tiến sĩ Shiva Kumar Reddy Mukkamalla, Presbyterian Medical Group, Rio Rancho, New Mexico, có thể sau liều đầu tiên của bisphosphonat tiêm tĩnh mạch, có sự thay đổi đáng kể trong tốc độ luân chuyển xương, có thể được đo bằng nồng độ telopeptide đầu cuối trong huyết thanh hoặc nước tiểu và tần suất sử dụng bisphosphonat tiêm tĩnh mạch tiếp theo không ảnh hưởng nhiều đến hệ xương.
Tiến sĩ Clifford Rosen, giáo sư, Trường Y Đại học Tufts, Boston, các sự kiện liên quan đến xương rất thường xuyên gặp trên bệnh nhân u tủy và cần nỗ lực phòng ngừa.
Bisphosphonates là 1 chất hỗ trợ quan trọng trong việc quản lý những bệnh nhân này và tần suất sử dụng thuốc có thể lâu hơn dự kiến. Có thể tưởng tượng được bisphosphonates có thể được sử dụng với tần suất dài nhất là 3 tháng 1 lần.
Tên bài:
Different IV Bisphosphonates Dosing Tied to Similar Skeletal Event Rates in Multiple Myeloma
Lisa Rapaport
August 02, 2021
Medscape.com.