Với liệu pháp miễn dịch mới tislelizumab có hiệu quả lâu dài đạt được đối với những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) tiến triển, bất kể số lần điều trị trước đó, theo kết quả từ thử nghiệm nhãn mở giai đoạn 2.
Nghiên cứu gồm 250 bệnh nhân HCC tiến triển được điều trị bằng thuốc. Trong số những bệnh nhân đó, 67% có ghi nhận biến chứng, và 79% không có biến chứng sau 12 tháng.
Tác giả chính Ghassan K. Abou-Alfa MD, Trung tâm Memorial Sloan Kettering Cancer Center, thành phố New York, nhận xét với tỷ lệ đáp ứng khách quan là 13% và thời gian sống thêm trung bình là 13 tháng.
Báo cáo được nêu lên tại Đại hội World Congress on Gastrointestinal Cancers 2021 (WCGC 2021) vào ngày 1 / 7.
Tislelizumab là 1 kháng thể kháng PD-1 được thiết kế giảm thiểu sự gắn kết của thụ thể Fc-gamma trên đại thực bào, đây là cơ chế thanh thải tế bào T và khả năng kháng PD-1.
Thuốc được cấp duyệt ở Trung Quốc và được Novartis từ BeiGene cấp phép phát triển ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản.
Một nghiên cứu lớn, toàn cầu, giai đoạn 3 ngẫu nhiên so sánh tislelizumab với sorafenib như 1 phương pháp điều trị đầu tay đối với người lớn có ung thư biểu mô tế bào gan cấp tiến triển đang được tiến hành.
Chris Verslype, MD, Tiến sĩ, Bệnh viện Đại học Leuven, Leuven, Bỉ,
KEYNOTE-240, 1 thử nghiệm pha 3 giữa pembrolizumab và giả dược trong 1 nhóm thuần tập tương tự gồm các bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan, hiệu quả, thời gian sống thêm không tiến triển, thời gian sống thêm tổng thể và các tác dụng phụ, kết quả phù hợp với với những người được xem với tislelizumab.
Đối với nghiên cứu giai đoạn 2, những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan tiến triển được đưa vào nếu họ nhận được ít nhất 1 dòng liệu pháp toàn thân trước đó không gồm chất ức chế điểm kiểm soát và có tình trạng hoạt động tốt và tiên lượng tương đối tốt.
Bệnh nhân được điều trị bằng tislelizumab tiêm tĩnh mạch 3 tuần 1 lần đến khi độc tính không thể dung nạp, thay đổi quyết định, hoặc bệnh nhân được coi là không còn hưởng lợi từ liệu pháp nghiên cứu.
Tổng cộng có 249 bệnh nhân được đưa vào phân tích. Đại đa số (80,3%) có sự lây lan ngoài gan.
Phần lớn các trường hợp ung thư biểu mô tế bào gan là do viêm gan B (51,4%); 14,5% là do viêm gan C; và 36,1% là phi vi-rút. Biểu hiện PD-L1 trên tế bào khối u là ≥1% trong 6,0% bệnh nhân.
Tất cả bệnh nhân được điều trị toàn thân trước đó; 138 bệnh nhân đã nhận được 1 dòng trị liệu, và 111 bệnh nhân nhận được ít nhất 2 dòng.
Đánh giá X quang được thực hiện 6 tuần 1 lần trong 18 tuần đầu tiên và sau đó là 9 tuần 1 lần.
Trên cơ sở các đánh giá này, trên toàn bộ nhóm bệnh nhân, tỷ lệ đáp ứng khách quan là 13,3%, tỷ lệ kiểm soát bệnh là 53,0% và tỷ lệ có lợi trên lâm sàng là 24,1%.
Nhóm nghiên cứu cũng phát hiện 79,2% bệnh nhân có phản ứng với tislelizumab kéo dài ít nhất 12 tháng; 66,7% câu trả lời vẫn tiếp tục vào thời điểm cắt số liệu vào ngày 27 / 2 / 2020.
Hiệu quả của tislelizumab ở những bệnh nhân nhận được ít nhất 2 dòng liệu pháp trước đó có thể so sánh với những phản ứng thấy ở những người trước đó được điều trị bằng 1 dòng liệu pháp.
Tỷ lệ kiểm soát bệnh là 53,2% ở những bệnh nhân được điều trị ít nhất 2 lần trước đó, so với 52,9% ở những bệnh nhân được điều trị trước ít nặng hơn. Tỷ lệ lợi ích lâm sàng là 21,6% so với 26,1%; 73,0% có phản ứng kéo dài ít nhất 12 tháng, so với 82,6% những bệnh nhân được điều trị trước ít nặng hơn.
Hiệu quả có thể so sánh được bất kể giới tính bệnh nhân, khu vực địa lý, tình trạng hoạt động, tiên lượng HCC, biểu hiện PD-L1, và lan truyền ngoài gan, cùng với các yếu tố khác.
Hiệu quả khách quan cao hơn ở những bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có liên quan đến viêm gan C, ở mức 22,6%.
Tỷ lệ sống chung là 13,2 tháng trong toàn bộ nhóm; 54,3% bệnh nhân còn sống sau 12 tháng.
Trong thời gian theo dõi trung bình là 16,4 tháng, thời gian sống thêm không có tiến triển trung bình là 2,7 tháng, và 79,2% bệnh nhân không có biến cố sau 12 tháng.
Các tác dụng phụ cấp cứu cấp ≥3 gặp ở 48,6% bệnh nhân; 14,5% có các tác dụng phụ liên quan đến điều trị cấp ≥3.
Các tác dụng phụ điều trị phổ biến nhất ở mọi cấp độ như sau: tăng nồng độ aspartate aminotransferase ở 12,9% bệnh nhân; tăng nồng độ alanin aminotransferase, trong 9,2%; suy nhược, trong 7,6%; và suy giáp, trong 7,6%.
Đối với cả kết quả sống còn và các tác dụng phụ, những bệnh nhân đã được thực hiện ít nhất 2 dòng liệu pháp toàn thân trước đó cũng như những bệnh nhân chỉ nhận 1 liệu pháp trước đó trước khi điều trị bằng tislelizumab.
Tên bài:
Tislelizumab Benefit in HCC Undimmed by Prior Therapies
Liam Davenport
July 06, 2021
Medscape.com