Trong 1 nghiên cứu dài nhất tình trạng mất xương ở phụ nữ sau mãn kinh đến nay, trung bình, mật độ khoáng của xương (BMD) ở cổ xương đùi (vị trí phổ biến nhất với gãy xương hông) giảm 10% trong 25 năm, ít hơn dự kiến dựa trên các nghiên cứu ngắn hơn.
Giảm BMD trung bình ở cổ xương đùi là 0,4% mỗi năm trong suốt 25 năm trong nghiên cứu mới này từ Phần Lan, so với mức giảm 1,6% mỗi năm trong 15 năm được báo cáo trong các nhóm khác.
Sự thay đổi BMD trong 5 năm dường như dự đoán tình trạng mất xương lâu dài. Tuy nhiên, 1 số phụ nữ mất xương nhanh hơn thấy họ cần được theo dõi chặt chẽ hơn.
Mặc dù tỷ lệ mất xương trung bình là 10,1% nhưng có sự thay đổi đáng kể trong tỷ lệ mất xương ở những phụ nữ trong nghiên cứu, tác giả cao cấp phó giáo sư, Joonas Sirola, MD, PhD, Đại học Đông Phần Lan, và đồng tác giả giáo sư Heikki Kröger MD, PhD. Phụ nữ mất xương nhanh nên nhận được sự quan tâm đặc biệt.
Những phát hiện từ nghiên cứu yếu tố nguy cơ và phòng ngừa loãng xương Kuopio (OSTPRE) của Anna Moilanen cùng các đồng nghiệp được báo cáo trực tuyến ngày 19/10 trên báo Nghiên cứu xương và khoáng chất.
Một số yếu tố có thể giải thích sự sụt giảm thấp hơn mong đợi của BMD cổ xương đùi (vị trí được sử dụng chẩn đoán loãng xương). BMD phụ thuộc vào độ tuổi, chủng tộc, giới tính và gen của một người. Và so với các quốc gia khác, người dân ở Phần Lan tiêu thụ nhiều sản phẩm từ sữa hơn và nhiều phụ nữ sau mãn kinh ở đó sử dụng liệu pháp thay thế hormone (HRT).
Nếu được chỉ định khác, HRT dường như bảo vệ hiệu quả khỏi tình trạng mất xương.
Số phụ nữ hút thuốc hoặc sử dụng corticosteroid thấp, vì vậy tỷ lệ mất xương ở các nhóm dân số khác có thể cao hơn. Hơn nữa, những phụ nữ hoàn thành nghiên cứu có thể khỏe mạnh hơn khi bắt đầu, vì vậy kết quả nên được giải thích 1 cách thận trọng.
Nghiên cứu làm sáng tỏ những thay đổi lâu dài trong BMD ở phụ nữ sau mãn kinh và nhấn mạnh tầm quan trọng của khối lượng xương đỉnh cao trước khi mãn kinh và giữ cân nặng hợp lý trong quá trình lão hóa giúp bảo vệ sức khỏe của xương.
Thay đổi hiểu biết tình trạng mất xương ở phụ nữ lớn tuổi
Kiểm tra BMD mỗi 5 năm sau khi mãn kinh. Theo Peter R. Ebeling, MD, ASBMR, ghi nhận những phát hiện chính là tỷ lệ mất xương cổ xương đùi sau thời kỳ tiền mãn kinh thấp hơn nhiều so với dự kiến trước đây, và sự thay đổi BMD trong 5 năm dường như dự đoán tình trạng mất xương lâu dài ở phụ nữ sau mãn kinh.
Mất xương bắt đầu 1 năm trước khi mãn kinh và tăng nhanh trong 5 năm tới, theo Ebeling, Đại học Monash, Melbourne, Victoria, Úc. Nghiên cứu này nêu lên 1 số ổn định của sự mất xương sau đó với tác động ít hơn của nồng độ estrogen thấp lên xương.
Có thể có nghĩa là mật độ xương không cần phải đo thường xuyên sau khi chuyển đổi thời kỳ mãn kinh và có thể là 5 năm 1 lần, thay vì 2 năm 1 lần nếu có lo ngại việc tiếp tục mất xương.
Các yếu tố rủi ro cơ bản và những thay đổi dài hạn trong BMD
Đối với nghiên cứu, các nhà nghiên cứu kiểm tra mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ mất xương và những thay đổi lâu dài của BMD cổ xương đùi ở 2695 phụ nữ sống ở Kuopio, những người từ 47 đến 56 tuổi vào năm 1989. Những phụ nữ này có độ tuổi trung bình là 53 và 62% mãn kinh.
Bệnh nhân trả lời bảng câu hỏi và đo BMD cổ xương đùi bằng DEXA 5 năm 1 lần.
Tổng số 2695, 2583, 2482, 2135, 1305 và 686 phụ nữ được đánh giá tại thời điểm ban đầu và các lần theo dõi 5, 10, 15, 20 và 25 năm, thấy 25 người bỏ cuộc đáng kể nhiều năm.
Vào thời điểm đó, 17% bệnh nhân tử vong, 9% cần được chăm sóc lâu dài, 1 số không muốn tiếp tục nghiên cứu và những người khác có các yếu tố dẫn đến sai số đo DEXA (ví dụ: cấy ghép hông, thoái hóa cột sống).
Các nhà nghiên cứu chia những người tham gia thành các nhóm 1/4 của BMD cổ xương đùi ban đầu trung bình: 1,09 g / cm2, 0,97 g / cm2, 0,89 g / cm2 và 0,79 g / cm2, tương ứng với các nhóm 1/4 tương ứng từ 1 đến 4 (trong đó nhóm 1/4 có BMD cổ đùi ban đầu cao nhất và nhóm 1/4 thấp nhất).
Ở tuổi 25, BMD trung bình của xương đùi giảm xuống 0,97 g/cm2, 0,87 g/cm2, 0,80 g / cm2 và 0,73 g/cm2 trong các nhóm 1/4 tương ứng này.
Phụ nữ mất 0,9%, 0,5%, 3,0% và 1,0% BMD ban đầu của họ mỗi năm trong nhóm 1/4 từ 1 đến 4, tương ứng.
Và ở tuổi 25, phụ nữ giảm lần lượt 22,5%, 12,5%, 7,5% và 2,5% BMD ban đầu của họ trong nhóm 1/4.
Phụ nữ ở nhóm 1/4 thứ 1 có BMD xương đùi giảm nhiều nhất ở tuổi 25, mặc dù BMD trung bình của họ ở tuổi 25 cao hơn BMD trung bình ban đầu của những phụ nữ khác.
Tỷ lệ các bệnh ảnh hưởng đến xương, hút thuốc và sử dụng vitamin D / bổ sung canxi, corticosteroid hoặc rượu là tương tự nhau trong 4 nhóm 1/4 và không liên quan đến sự khác biệt đáng kể sự mất xương hàng năm.
Yếu tố bảo vệ quan trọng nhất là HRT
Tuy nhiên, chỉ số khối cơ thể (BMI) và HRT có sự khác biệt đáng kể trong 4 nhóm 1/4.
Trung bình, phụ nữ ở nhóm 1/4 thứ 1 có BMI trung bình là 26,7 kg / m2 tại thời điểm ban đầu và 27,8 kg / m2 vào 25 tuổi. Phụ nữ ở nhóm 4 (BMD ban đầu thấp nhất và BMD giảm thấp nhất) có BMI trung bình là 24,9 kg / m2 tại thời điểm ban đầu và 28,4 kg / m2 vào 25 tuổi.
Phụ nữ ở nhóm 1/4 thứ 4 (BMD ban đầu thấp nhất và BMD giảm thấp nhất) có nhiều khả năng dùng HRT hơn phụ nữ ở nhóm 1/4 thứ 1 (BMD ban đầu cao nhất và BMD giảm cao nhất), tương ứng là 41% so với 26%.
Sự giảm mật độ khoáng xương trung bình thấp hơn so với giả định trước đó, theo dõi ngắn hơn, nơi tỷ lệ mất xương ở cổ xương đùi được ước tính là hơn 20%.
Cũng có rất ít yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến mật độ khoáng của xương 1 cách đáng ngạc nhiên. Yếu tố quan trọng nhất bảo vệ chống lại sự mất xương là liệu pháp thay thế hormone.
Tài liệu tham khảo
New Study ‘Changes Understanding of Bone Loss After Menopause’
Marlene Busko
November 03, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/962155