Phụ nữ có tiền sử ung thư vú giai đoạn III đến giai đoạn IV bị gãy xương đốt sống bệnh lý nhiều hơn đáng kể so với những người bệnh giai đoạn I và giai đoạn II, dựa trên dữ liệu từ khoảng 5.000 phụ nữ trưởng thành.
Theo Joan C. Lo, MD, thuộc Kaiser Permanente Northern California, Oakland, cùng các đồng nghiệp, nêu lên ung thư vú vẫn liên quan đến tăng nguy cơ gãy xương 1 phần do thiếu hụt estrogen, chất ức chế men aromatase, gầy yếu và di căn xương. Gãy xương liên quan đến những yếu tố này được nghiên cứu, nhưng nhiều nghiên cứu dịch tễ học hiện có thiếu chi tiết đối với gãy xương liên quan đến ung thư. Các nhà nghiên cứu kiểm tra mối liên quan giữa gãy xương bệnh lý và gãy xương nặng ở phụ nữ có ung thư vú xâm lấn được điều trị nội tiết.
Trong 1 nghiên cứu được báo cáo trên JAMA Network Open, các nhà nghiên cứu xem xét số liệu từ 5.010 phụ nữ tham gia Nghiên cứu Con đường (3.312 phụ nữ) hoặc Chương trình Nghiên cứu về Gen, Môi trường và Sức khỏe (RPGEH) nghiên cứu (1.698 phụ nữ) ung thư vú xâm lấn mới được chẩn đoán đã được điều trị nội tiết. Những người phụ nữ được theo dõi tới 10 năm vì sự cố gãy xương, với thời gian theo dõi trung bình là 6,7 năm.
Độ tuổi trung bình của phụ nữ là 60,2 tuổi; 73,3% là người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha, 4,9% là người da đen, 9,4% là người gốc Tây Ban Nha và 1,6% là phụ nữ không rõ dân tộc. Khoảng 90% phụ nữ ở giai đoạn I đến giai đoạn II khi chẩn đoán ban đầu.
Có 340 (6,8%) gãy xương do sự cố trong thời gian theo dõi. Các trường hợp gãy xương gồm 46 xương hông, 104 đốt sống, 78 xương sống và 137 gãy xương cổ tay. Số phụ nữ gãy xương hông nhiều hơn đáng kể (43,5%) từ 80 tuổi trở lên, so với dưới 25% phụ nữ gãy đốt sống (22,1%), gãy xương đùi (19,2%), hoặc gãy cổ tay (15,3%).
Gãy xương bệnh lý chiếm 22 trên 104 trường hợp gãy đốt sống (21,2%) và ít hơn 5 trên 46 trường hợp gãy xương hông do sự cố (8,7%); 1 số gãy xương cổ tay và xương đùi là bệnh lý. Theo giai đoạn khối u, 15 trong số 87 (17,2%) gãy xương đốt sống ở phụ nữ ban đầu giai đoạn I và II là bệnh lý, so với 7 trên 17 (41,2%) ở phụ nữ ban đầu ung thư vú giai đoạn III đến giai đoạn IV .
Kết quả nhấn mạnh sự cần thiết phải xem xét nguy cơ gãy đốt sống ở phụ nữ ung thư vú, đặc biệt là ung thư giai đoạn cuối, vì khoảng 1/3 số ca gãy đốt sống do sự cố ở nhóm bệnh nhân này được coi là liên quan đến ung thư.
Vì khung xương trục là vị trí phổ biến cho di căn ung thư vú và đốt sống là vị trí phổ biến cho gãy xương bệnh lý, các bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu nên xem xét khả năng gãy xương bệnh lý ở những phụ nữ có nguy cơ cao hơn dựa trên tiền sử ung thư giai đoạn cao.
Các kết quả nghiên cứu hạn chế bởi 1 số yếu tố, gồm thiếu số liệu các yếu tố nguy cơ gãy xương, điều trị và hóa trị, và chỉ gồm các trường hợp gãy xương được chẩn đoán lâm sàng và gãy xương đốt sống không có triệu chứng. Kết quả được củng cố bởi kích thước mẫu lớn và đánh giá đứt gãy toàn diện. Các nghiên cứu bổ sung xem xét nguy cơ gãy xương không do bệnh lý khi điều trị ung thư vú, chẳng hạn như việc sử dụng chất ức chế aromatase so với hóa trị liệu gây độc tế bào, có thể phụ nữ sẽ được hưởng lợi từ việc ngăn ngừa gãy xương tích cực hơn.
Nghiên cứu này nhấn mạnh mối liên hệ rõ ràng giữa chẩn đoán ban đầu là ung thư vú giai đoạn III hoặc IV và tăng nguy cơ gãy đốt sống bệnh lý, theo Constance Bohon, MD, Washington, D.C. Nhiều khả năng phát hiện này là thứ phát sau di căn ung thư vú.
Số liệu bổ sung xác định tuổi mãn kinh, tần suất tập thể dục, cân nặng hiện tại và tiền sử gia đình loãng xương có thể giúp xác định những người có nguy cơ cao nhất gãy đốt sống bệnh lý. Các bác sĩ lâm sàng khuyến cáo các lựa chọn có thể giảm thiểu nguy cơ gia tăng rõ ràng đối với gãy đốt sống bệnh lý.
Tên bài:
Breast Cancer History Promotes Vertebral Fracture Risk
Heidi Splete
November 22, 2021
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/963470