Da – Cơ quan che phủ bên ngoài cơ thể chia thành lớp thượng bì và lớp trung bì, 2 lớp này bị ảnh hưởng mật thiết đến nhau thông qua các tín hiệu cơ thể. Trong môi trường tự nhiên chủ yếu như các tác động cơ học hay tổn thương, nhiệt hay tia tử ngoại thông qua biểu bì truyền đến lớp trung bì rồi gây ảnh hưởng, khi phẫu thuật thẩm mỹ làn da nhân tạo được giới thiệu như một phương pháp không chỉ kích thích tác động lên lớp trung bì thông qua biểu bì mà còn truyền nhiệt thông qua việc focusing hoặc làm lạnh trên bề mặt da hoặc thông qua việc xâm lấn của kim tiêm gây tác động trực tiếp lên lớp trung bì và ít gây kích ứng đến lớp biểu bì. Trong thẩm mỹ da liễu, các phương pháp tác động lên lớp trung bì tiêu biểu như là liệu pháp tiêm booster skin, các loại laser, căng chỉ, thiết bị thu sóng siêu âm. Sóng siêu âm hay laser, căng chỉ sẽ được giải thích ở các chương khác, tại chương này sẽ nói về các tác động sinh hóa học của dung dịch tiêm, các tác động cơ học hay tổn thương bởi kim tiêm do khi tiêm vào lớp trung bì booster skin với thành phần đặc biệt gây ra.
Khi tiêm booster skin vào da 1 phần kim xuyên qua da và đưa thuốc vào dưới da. Trong quá trình tiêm như vậy có thể sẽ gây ít nhất 3 loại ảnh hưởng cho cấu trúc da (hình 31-1). Hãy cùng nhau tìm hiểu lần lượt các ảnh hưởng cho tổ chức da do các thành phần sinh hóa học của thuốc, tổn thương do kim tiêm và tác động cơ học do ma sát với da, áp lực lên tổ chức da do lượng thuốc được tiêm vào.
1. Tác động cơ học và tổn thương do kim tiêm
H.langevin – một bác sĩ khoa tâm thần của Mỹ người đã nghiên cứu về tác động của kim tiêm lên tổ chức da vào đầu những năm 2000 là đại diện cho những nghiên cứu về thuật châm cứu như là y học thay thế. Cuộc nghiên cứu đã ghi chép một cách chi tiết về những ảnh hưởng mà các tác động cơ học gây ra cho nguyên bào sợi đặc biệt của tế bào da thông qua việc làm sáng tỏ những ảnh hưởng khi đưa kim tiêm vào tổ chức da cục bộ. Theo đó tế bào có khuynh hướng duy trì tính ổn định về tác động bên ngoài nên sự biến dạng của tế bào khi chịu ngoại lực sẽ gây tác động áp lực lên tế bào da rồi gây ảnh hưởng đến các quá trình trao đổi chất của tế bào. Tiêu biểu là nguyên bào sợi sau khi nhận ảnh hưởng sẽ xuất hiện nhiều loại hiệu quả. Nguyên bào sợi phản ứng với các tác động cơ học hay sự tăng nhiệt độ từ tế bào sản sinh collagen dẫn đến việc biến đổi cấu trúc. (Hình 31-2).
Trong phẫu thuật thẩm mỹ làn da vì việc điều chính nguyên bào sợi vô cùng quan trọng nên không chỉ kim tiêm mà các trang thiết bị điều trị da như sóng siêu âm, tần số cao, laser đang được tiến hành với mục tiêu điều chỉnh nguyên bào sợi, và các ánh hưởng đến nguyên bào sợi do tác động của các phẫu thuật trên, về kích ứng nguyên bào sợi do kim tiêm, nếu dựa vào bài luận văn của Langevin đã phát biểu năm 2006 thì khi xoay kim sau khi đã tiêm vào dưới da thì việc các hoạt tính của nguyên bào sợi được tăng lên đã được thí nghiệm và chứng minh, trên thực tế có thể thấy khá nhiều các nhà trị liệu áp dụng biện pháp như vậy và cùng mang lại hiệu quả thần kỳ tuy nhiên sẽ gây ảnh hưởng tùy theo kết quả làm thủ thuật. (Hình 31 -2).
Việc ứng dụng những thủ thuật này có thể áp dụng cho tất cả các quy trình xâm nhập vào da bằng kim cũng như vật liệu dẫn khác. Dermotoxin, lilting, tiêm filler, tiêm mỡ, hút mỡ… không cần phân biệt bản chất của chất tiêm nhưng tất cả đều gây tổn thương mô và kích ứng cơ học bằng dụng cụ tiêm. Xâm nhập da và mô dưới da bằng kim hoặc kim cannula ( kim đầu tù – ống thông) , khi kích thích cơ học được áp dụng cùng với tổn thương mô, quá trình sinh học cấp độ tế bào được mô tả ở trên xuất hiện và có thể được sử dụng cho các hiệu ứng dẫn đưa chất dinh dưỡng mỹ phẩm vào. Trong thực tế, kim tiêm hoặc những xâm lấn khác liên quan có thể gây tác động nguyên bào sợi bằng cách kích thích cơ học hoặc tác động đến vùng da xung quanh. Thông thường, kim có thể là vật liệu được gắn với sản phẩm như trường hợp tiêu biểu thường thấy là chỉ sinh học PDO được gan vào kim cannula thông quá ống rỗng của kim, chúng ta chỉ thao tác xoay kim hoặc trường hợp dùng kim thường đưa dưỡng chất, chất làm đầy hay botulimun toxin vào bên trong da. Thao tác xoay và lật kim (Hình 31-3).
Trong thực tế những người làm thủ thuật ứng dụng những kỹ thuật này nhưng về kỹ thuật đòi hỏi sự tinh tế hoàn hảo hơn thì nó cũng mang lại hiệu quả tốt và hài lòng hơn.
2. Tác động cơ học do khối lượng thuốc tiêm vào
Không chỉ tác động do kim tiêm mà lượng thuốc được tiêm vào dưới da vừa hình thành 1 lượng lớn nhất định dưới da vừa gây áp lực lên tổ chức da xung quanh. (Hình 31-4). tế bào bị gây áp lực để duy trì tính ổn định sẽ tiến hành xây dựng hình thành các tổ chức da mới.
Để đối phó với sự giãn nở ngày càng lớn, các mô dưới da cố gắng chống lại sự căng thẳng bằng cách biến các nguyên bào sợi thành myofibroblasts bao phủ xung quanh vật chất lạ đang phát triển. Nhưng khi vượt quá giới hạn của sức đề kháng, chúng bắt đầu thích ứng và khi thể tích giãn nở tăng lên, tốc độ phân chia tế bào da tăng lên đồng thời diện tích của da mới bị ảnh hưởng có thể tăng lên gấp 2 lần trong vòng vài tuần (Hình 31-5)
Áp lực và biến dạng gây ra bởi sự gia tăng của chất bên trong dẫn đến kháng nguyên tương thích mô phụ, và hiện tượng này có thể được áp dụng cho các quy trình
thẩm mỹ.
Không giống như công cụ gây giãn (expander) chất được tiêm được tiêm bằng kim chủ yếu là chất lỏng hoặc gel giống như chất làm đầy. do đó không thể cung cấp kích thích cơ học mạnh như thiết bị expander(Hình 31-4) Trong trường hợp của filler vào năm 2007 Wang đã tường thuật về ảnh hưởng về kích ứng cơ học tăng thể tích do filier, Độc tố Botulinum cũng đã được chứng minh là có tác dụng ngay lập tức đối với các phương pháp điều trị mesobotox bằng các kích thích tạm thời như kích thích từ kim và thể tích chất lỏng (chang, 2008 / Petchngaovilai, 2009), và được suy đoán rằng gây ảnh hưởng trực tiếp đến nguyên bào sợi tuy nhiên kích ứng đó có thể biến mất do bị hấp thụ.
Trong quá trình tiêm dermotoxin như hình 31-6 dung dịch được tiêm được dịch chuyên xung quanh vùng mặt, đồng thời khi tăng kích thước hay độ sâu của kim cũng tạo nên sự khác biệt và về các hướng nâng của kích ứng cơ học. Theo kinh nghiệm phẫu thuật cho thấy về việc hình thành hướng nâng CƠ này ( hưởng kéo) cũng không mang lại hiệu quả đáng kể và không có nhiều ý nghĩa. Điều này là do các phản ứng mô xảy ra không chỉ theo hưởng ngang mà chủ yếu theo hướng dọc và không có điểm neo nào có thể được neo theo chiều ngang. Thay vào đó, hiệu quả của việc nâng theo hướng thẳng đứng với các mô cứng như dây chằng và lớp màng ngoài theo hướng thẳng đứng có thể được quan sát ngay sau thủ thuật. Tuy nhiên dường như hiệu quả của thủ thuật này duy trì không lâu dài. Một số bài báo cũng cho thấy một quan sát rất tích cực về hiệu quả ngay sau khi làm thủ thuật, nhưng bằng chứng về tác dụng trung hạn đến dài hạn của thí nghiệm vẫn chưa đầy đủ. So với điều đó thì filler tạo ra sự thay đổi tương đối mạnh mẽ bởi các kích ứng cơ học. Vào năm 2007 dựa theo Wang thì khi đưa filler vào lớp hạ bì sẽ gây áp lực lên các nguyên bào sợi và các tế bào bị gây áp lực dược thúc đẩy sản xuất collagen trong sợi nguyên bào do việc làm cong thành tế bào. Gây kích ứng lên da không tốt bằng việc cấy ghép túi độn tuy nhiên, túi độn sẽ không dễ dàng được hấp thụ và sẽ vẫn cồng kềnh trong một thời gian, dẫn đến kích thích cơ học lớn hơn so với nước muối sinh lý hoặc truyền dịch có tính chất hấp thụ nhanh khác.
Trong quy trình tiêm filler, chúng tôi đã đề cập đến tổn thương do sử dụng kim và kích ứng cơ học nhưng khi tiêm lượng lớn cùng với hiệu quả kim như vậy cũng có thể mang đến hiệu quả tốt nhất. Bạn có thể quan sát hiệu ứng trên các vết SCO hoặc nếp nhăn sâu, trong trường hợp SCO hoặc nếp nhăn đã được thay thế bằng mô xơ, thay vì chỉ tiêm chất làm đầy để làm giảm sẹo hoặc nếp nhăn, tác động cơ học lên các mô bị tổn thương bằng cách cắt bỏ da hoặc gây tổn thương bằng kim tiêm trước khi tiêm, sau đó tiêm chất làm đầy thêm sẽ giúp sửa chữa cấu trúc da thông qua việc tái tạo và chữa lành, dẫn đến kết quả tốt hơn so với việc chỉ sử dụng chất làm đầy.
Ngoài việc gây tổn thương, kích thích CƠ học của chất làm đầy dường như còn đẩy nhanh quá trình tái tạo và chữa lành da. Ví dụ, trong trường hợp vết thương hoặc vết khâu phẫu thuật, kích hoạt tái tạo da sớm bảng cách tiêm chất làm đầy vào vùng sẹo trước khi việc tái tạo cấu trúc da hoàn tất cùng có thể giúp điều trị sẹo.(Trước 4 tuần, da đang trong tình trạng hồi phục).
Ngoài ra có thể nghĩ có nhiều trường hợp giúp ích khác tuy nhiên tôi nghĩ rằng cần phải chú ý cẩn trọng trong các ứng dụng thực tế. Các kích thích cơ học và tổn thương do kim và các kích thích cơ học khác nhau gây ra bởi truyền dịch hoặc cấy ghép tùy theo trạng thái hay giai đoạn hồi phục tổn thương da, thời gian và cường độ kích ứng, kích thích sinh hóa đặc hiệu cho truyền dịch, mức độ tổn thương thì mỗi chất hay hệ thống truyền tính hiệu khác nhau và cho đến hiện tại việc dự đoán hiệu quả không hề dễ dàng vì đây không phải là lĩnh vực được nghiên cứu nhiều.
Đặc biệt là khi việc chữa lành vết thương đi kèm với các tác dụng phụ như nhiễm trùng, hoặc kích ứng và tổn thương cơ học có thể gây nguy hiểm cho da với các đốm và tình trạng viêm mãn tính nên cần phải tiếp cận 1 cách cẩn thận và nên ưu tiên sử dụng các phương pháp trị liệu như thuốc chống viêm, các chất tái tạo da nối tiếng, điều trị kháng viêm theo tiêu chuẩn y tế.
3. Ảnh hưởng đến tổ chức da cho các biểu hiện sinh hóa của thuốc tiêm
Khi giải thích cơ chế tác dụng hiệu quả của skin booster hiện có thì đây là phần chính quan trọng nhất. Kích thích cơ học gây ra bởi kim hoặc thể tích dịch truyền được mô tả ở trên cũng không đáng kề, nhưng đó là điều quen thuộc và có sức thuyết phục trong việc giải thích làm thể nào các thành phần hoạt động của thuốc được tiêm có thể xâm nhập vào mô, hoạt động và đem lại các tác dụng sinh hóa có lợi trên da. Thành phần tiêm điển hình nhất là tiêm axit hyaluronic.
Bằng cách tiêm trực tiếp axit hyaluronic đẻ tiêm khớp vào da, có thể dự đoán được tác dụng dưỡng ẩm da và sản xuất collagen và về tác dụng trên cũng đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nên axit hyaluronic thường được sử dụng như một thành phần được tiêm trực tiếp vào da hay làm cơ sở nền tảng cho một số skin booster.
Tiếp theo, chất tiêm được cho phép phổ biến là thành phần PDRN (Polydeoxyribonucleotide), đây là thành phần được sử dụng trước đây để tiêm tĩnh mạch tăng tỷ lệ tiếp nhận da trong quá trình ghép da. Nhiều tác dụng được biết đến trên các thành phần PDRN và nhiều bác sĩ lâm sàng nhận ra tác dụng của chúng. Tuy nhiên, trong phẫu thuật thực tế không chỉ có hiệu quả tác dụng của các hoạt chất mà còn có tác dụng sửa chữa của kích ứng cơ học do kim tiêm và thể tích dung dịch tiêm.
Ngoài ra, kích ứng có thể là một vấn đề khi tiêm skin booster trái phép, nhưng trong trường hợp skin booster được đảm bảo an toàn trong quá trình sản xuất thì thuốc tiêm có thể được tiêm trực tiếp vào da theo quy trình trên nhãn dán. Dù là ở nước ngoài hay trong nước thì trên thực tế có rất ít các nghiên cứu về hiệu quả thẩm mỹ tuy nhiên các yếu tố tăng trưởng hoặc các chất chống viêm khác đã được chứng minh là có hiệu quả trong quá trình chữa lành vết thương hay có thể được tiêm vào da để mang lại hiệu quả mỹ phẩm, theo kinh nghiệm cá nhân của tôi thì tôi nghĩ rằng ngoài tính ổn định, các hoạt chất này chắc chắn sẽ có hiệu quả.
4. Skin booster và những kích thích trung bì
Để duy trì độ đàn hồi và chống lão hóa, nhiều thủ thuật phẫu thuật đã được thực hiện để kích thích lớp hạ bì bằng cách đâm vào da hay làm nóng. Tuy nhiên, gần đây, một phương pháp kích thích lớp hạ bì bằng thành phần skin booster đã được giới thiệu thay vì kích thích lớp hạ bì bằng nhiệt hoặc kim. Một ví dụ điển hình là nguyên tắc kích thích mô da bằng áp suất thẩm thấu bằng cách tiêm dung dịch nồng độ cao vào mô. Dextrose hypertonic lỏng được sử dụng để điều trị đau và phục hồi chức năng.
Theo Rose năm 2016 thì hypertonic dextrose solution được giới thiệu như là một tác nhân tăng trưởng hoàn toàn an toàn dù tiêm 1 lượng lớn vào cơ thể do cơ chế hòa tan trong nước. Khi nồng độ cao của dung dịch tiêm vào mô sẽ gây ra áp suất thẩm thấu, khiến chất lỏng mô từ các tế bào xung quanh di chuyển ra khỏi tế bào, từ đó kích thích các tế bào theo một cách nào đó làm ảnh hưởng đến quá trình tái tạo tổ chức da (Hình 31-7). Cụ thể, áp suất thẩm thấu gây ra sự mất nước của các tế bào, điều này kích hoạt quá trình lành vết thương thông qua chấn thương của tế bào (trauma).
Giống như các tổ chức mô khác, tổ chức tế bào da cũng trải qua quá trình này và tái tạo các mô mới. Trong quá trình phẫu thuật thực tế, nồng độ cao của dung dịch tiêm có thể làm tăng kích ứng da vì điều đó có thể làm tăng áp suất thẩm thấu cũng như kích ứng cơ học của kim hoặc chất tiêm được mô tả ở trên. Thực tế là việc sử dụng hypertonic dextrose trong thẩm mỹ chỉ được áp dụng khá lâu tại một số viện da liễu tư nhân và chưa có đủ các cơ sơ nghiên cứu. Tuy nhiên khi xem xét việc các kích ứng cơ học đã giải thích trước đó gây ảnh hưởng đến tế bào nguyên sợi thì ngoài kích thích cơ học bằng kim và thể tích chất tiêm, kích thích thẩm thấu cùng có thể có tác dụng trên mô da dưới bất kỳ hình thức nào. Các nhà phát triển cho ra mắt sản phẩm cũng đang áp dụng kỹ thuật dermatoxin. Ngoài hiệu quả do kích thích cơ học hay thể tích thuốc tiêm thì kích ứng da do áp suất thẩm thấu mang lại hiệu quả hơn cả, có thể nói là hiệu quả được tối đa hóa. Tại đó sử dụng thêm các tế bào gốc nuôi dưỡng tế bào hay các thành tố hỗ trợ phục hồi da giúp tái tạo tế bào da và cải thiện làn da. Nếu người thực hiện thủ thuật pha botulinum toxin với liệu lượng thích hợp thì bạn hoàn toàn có thể trông đợi hiệu quả làm tê liệt tạm thời các cơ bắp của botox và các hiệu quả làm đẹp khác cho da.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
J Cell Physiol. 2006 Jun; 207 (3) : 767-74. Arch Dermatol. 2007 Feb; 143(2): 155-63. Journal of Cosmetic Dermatology, 8,312-3162009 Int J Dennatol 2008;47( 12): 1287- 94 Clin Med Insights Arthritis Musculoskelet Disord. 2016; 9: 139-159.
XEM THÊM
CÁC HOẠT CHẤT CHỐNG LÃO HÓA TRONG MỸ PHẨM
CẤU TRÚC SINH HỌC PHÂN TỬ CỦA BIỂU BÌ VÀ HẠ BÌ