Risankizumab (Skyrizi, AbbVie) cung cấp lợi ích sớm và lâu dài đối với bệnh nhân có bệnh Crohn, theo các thử nghiệm giai đoạn 3 nêu lên.
Dựa trên những phát hiện này và những phát hiện gần đây khác, thuốc có thể được sử dụng như 1 phương pháp điều trị đầu tiên và thay thế ustekinumab (Stelara, Janssen), được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cấp duyệt chỉ đối với bệnh Crohn vào năm 2016, theo Giáo sư David Rubin, MD, Joseph B. Kirsner, Đại học Chicago ở Illinois.
Thuốc có tác dụng nhanh. Nếu bạn bắt đầu liệu pháp này ở những bệnh nhân có bệnh Crohn từ trung bình đến nặng, họ có thể cảm thấy tốt hơn trong vài tuần đầu tiên.
Những phát hiện được báo cáo thuốc tiếp tục hoạt động tốt đến 52 tuần.
Những tiến bộ trong điều hòa miễn dịch cho phép các công ty dược đưa nhiều liệu pháp mới vào đường ống điều trị bệnh Crohn và các tình trạng liên quan trong những năm gần đây, mang lại hy vọng cho nhiều bệnh nhân không được hưởng lợi từ các loại thuốc cũ, chẳng hạn như chất sinh học.
Một kháng thể đơn dòng immunoglobin G1 (IgG1) được nhân bản hóa, risankizumab ngăn chặn interleukin (IL) 23 bằng cách liên kết với tiểu đơn vị p19 của nó. IL-23 là 1 cytokine liên quan đến 1 số rối loạn miễn dịch mãn tính, gồm bệnh Crohn và bệnh vẩy nến. Các nhà nghiên cứu hy vọng risankizumab sẽ được chứng minh là có tính chọn lọc cao hơn, với tính an toàn tốt hơn so với các loại thuốc trước đó cùng loại. FDA cấp duyệt risankizumab vào tháng 4/2019 điều trị bệnh vẩy nến mảng bám mức độ trung bình đến nặng.
Nghiên cứu MOTIVATE và ADVANCE
2 thử nghiệm cảm ứng trong bệnh Crohn ghi nhận các quần thể hơi khác nhau.
Nghiên cứu MOTIVATE ghi nhận những bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ hoặc không dung nạp với liệu pháp sinh học. Trong thử nghiệm này, các nhà điều tra chỉ định 205 bệnh nhân dùng 1200 mg risankizumab, 206 bệnh nhân dùng 600 mg risanbizumab và 207 bệnh nhân dùng giả dược.
Nghiên cứu ADVANCE ghi nhận những bệnh nhân đáp ứng không đầy đủ hoặc không thể dung nạp liệu pháp sinh học hoặc thông thường. Trong thử nghiệm này, các nhà điều tra chỉ định ngẫu nhiên 372 bệnh nhân dùng 1200 mg risankizumab, 373 bệnh nhân dùng 600 mg risankizumab và 186 bệnh nhân dùng giả dược.
Trong cả 2 thử nghiệm, tiêm tĩnh mạch được tiêm vào tuần 0, 4 và 8.
Các nhà nghiên cứu xác định sự thuyên giảm lâm sàng của Chỉ số hoạt động bệnh Crohn (CDAI) là điểm số dưới 150. Họ xác định sự thuyên giảm lâm sàng tần suất phân và điểm đau bụng (SF / APS) là tần suất phân mềm không quá 2,8 và bụng điểm đau không quá 1 và không nặng hơn mức cơ bản.
Đáp ứng lâm sàng của CDAI giảm ít nhất 100 điểm so với ban đầu. Đáp ứng lâm sàng nâng cao SF / APS là giảm ít nhất 60% tần suất phân trung bình hàng ngày hoặc giảm ít nhất 35% đau bụng trung bình hàng ngày, với cả 2 đều không tồi tệ hơn ban đầu.
Sau 4 tuần, tỷ lệ bệnh nhân thuyên giảm CDAI trên lâm sàng ở cả 2 nhóm risankizumab của cả 2 nghiên cứu đều lớn hơn so với nhóm giả dược và nó tiếp tục phát triển ở 8 tuần và 12 tuần.
Trong 12 tuần trong thử nghiệm ADVANCE, theo thông cáo báo chí, 45% bệnh nhân sử dụng liều 600 mg risankizumab và 42% sử dụng liều 1200 mg risankizumab thuyên giảm lâm sàng CDAI, so với 25% bệnh nhân trên giả dược, có ý nghĩa thống kê. Đối với thử nghiệm MOTIVATE, kết quả cũng tốt hơn đáng kể đối với bệnh nhân trong nhóm risankizumab so với những bệnh nhân trong nhóm giả dược.
Trong cả 2 thử nghiệm, nhóm được điều trị tiếp tục cải thiện nhanh hơn nhóm dùng giả dược trong 12 tuần. Những cải tiến đáp ứng lâm sàng nâng cao SF / APS phần lớn song song với những cải thiện thuyên giảm lâm sàng CDAI.
Nghiên cứu FORTIFY
Trong FORTIFY, thử nghiệm duy trì sau đó, các nhà nghiên cứu sắp xếp lại những bệnh nhân phản ứng với risankizumab thành 3 nhóm. 2 nhóm được tiêm risankizumab dưới da, với 179 bệnh nhân được 360 mg và 179 bệnh nhân khác được 180 mg. Nhóm giả dược gồm 184 bệnh nhân còn lại.
Vào tuần thứ 52, 40,9% bệnh nhân trong nhóm dùng giả dược thuyên giảm lâm sàng, so với 52,2% ở nhóm 360 mg và 55,4% ở nhóm 180 mg, có ý nghĩa thống kê.
Risankizumab có thể đạt được sự thuyên giảm sâu, có nghĩa là bệnh nhân đạt được sự thuyên giảm nội soi kết hợp với sự thuyên giảm lâm sàng, theo giáo sư Marla Dubinsky, MD, Trường Icahn School of Medicine, Mount Sinai ở Thành phố New York.
Trong 52 tuần, tỷ lệ thuyên giảm sâu và thuyên giảm nội soi tăng ở nhóm 360 mg, giữ ổn định ở nhóm 180 mg và giảm ở nhóm giả dược. Mức trung bình calprotectin và protein phản ứng C trong phân giảm ở nhóm risankizumab và tăng ở nhóm dùng giả dược.
Có tổng số các tác dụng phụ cấp cứu trong điều trị trên 100 bệnh nhân năm ở nhóm giả dược (339,7) so với nhóm 360 mg (269,3) hoặc nhóm 180 mg (283,5). Sự khác biệt tương tự giữa các nhóm cũng đúng các tác dụng phụ cấp cứu nghiêm trọng. Các sự kiện và sự kiện nghiêm trọng dẫn đến việc ngừng sử dụng là tương tự nhau ở 3 nhóm.
Tài liệu tham khảo
Risankizumab Has Early and Lasting Benefits in Crohn’s Disease
Laird Harrison
October 27, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/961739