Trong 1 nghiên cứu trên 359 bệnh nhân tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng về liệu pháp kháng vi-rút đối với các trường hợp nhiễm HBV, có 29 loại protein liên quan đến miễn dịch được tìm thấy ở mức độ cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân tiếp tục ức chế vi-rút 24 tuần sau khi kết thúc điều trị, so với những bệnh nhân không duy trì sự ức chế virus, theo Henry L.Y. Chan, MD, Đại học Trung Quốc Hồng Kông.
Chi tiết nghiên cứu
Trong nghiên cứu này, proteomics huyết tương thấy sự ức chế HBV kéo dài sau khi ngừng điều trị có liên quan đến mức độ cao hơn của các đáp ứng miễn dịch bẩm sinh và thích ứng trong quá trình điều trị.Nhóm của các protein khác nhau giữa những bệnh nhân được điều trị bằng các chất tương tự nucleoside và những người nhận được pegylated interferon (PEG-IFN).
Các hướng dẫn quốc tế việc ngừng sử dụng các chất tương tự nucleoside trong 1 số quần thể bệnh nhân nhất định với mục tiêu thúc đẩy các phản ứng duy trì sau điều trị, số liệu tổng hợp từ 4 nghiên cứu lớn ở giai đoạn 3 thấy chỉ có 10% bệnh nhân ức chế HBV DNA duy trì, và 32% nhiễm virut máu ở mức độ thấp kéo dài.
Chan cùng các đồng nghiệp tìm cách xác định các dấu ấn sinh học miễn dịch mà khi kết thúc điều trị dự đoán đáp ứng sau điều trị của HBV. Điều này rất quan trọng vì các phương pháp điều trị hiện tại không tiêu diệt được vi rút, ngay cả khi ức chế có thể dẫn đến ung thư biểu mô tế bào gan.
Các mẫu huyết tương từ những bệnh nhân viêm gan B mãn tính trong 2 nghiên cứu: 1 nghiên cứu đăng ký so sánh tenofovir disoproxil fumarate với adefovir, sau đó là duy trì tenofovir (GS-US-174-0102) và 1 nghiên cứu so sánh TDF cộng với PEG-IFN với 1 trong 2 thuốc đơn thuần (GS-US-174-0149).
Tổng số 359 bệnh nhân có ít nhất 2 lần tái khám không điều trị, dương tính với HBsAg khi kết thúc điều trị, gồm cả những bệnh nhân mất kháng nguyên khi điều trị nhưng sau đó chuyển hướng huyết thanh, các mẫu huyết tương được lấy trước khi kết thúc điều trị.
Kết quả nghiên cứu là sự ức chế virus kéo dài 24 tuần sau khi kết thúc điều trị, được xác định là HBV DNA dưới 29 IU / mL và trạng thái sao chép thấp được xác định là HBV DNA dưới 2.000 IU / mL với mức ALT bằng hoặc dưới giới hạn trên của bình thường.
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 39 tuổi. Tổng cộng, 67% dân số là nam giới và 70% là người châu Á.
Protein liên quan đến miễn dịch
Protein mức độ biểu hiện trong huyết thanh hoặc protein huyết tương khi kết thúc điều trị, tổng số 25 bệnh nhân ức chế HBV DNA ở tuần thứ 24 sau điều trị, 111 bệnh nhân có trạng thái sao chép thấp và 4 bệnh nhân mất HBsAg.
Những bệnh nhân ức chế HBV DNA có biểu hiện 29 protein liên quan đến miễn dịch cao hơn đáng kể, phần lớn trong số đó liên quan đến đáp ứng miễn dịch của vật chủ.
Các protein gồm các chất đánh dấu tế bào dòng tủy, các chemokine vận chuyển bạch cầu, các dấu hiệu tế bào diệt tự nhiên, và chất nền ngoại bào và / hoặc các protein liên kết với chất nền ngoại bào.
Trong số những bệnh nhân ức chế HBV, có bằng chứng về sự phong phú hóa các con đường tu sửa ngoại bào, cũng như các con đường liên quan đến phản ứng miễn dịch bẩm sinh đối với nhiễm virus và điều hòa miễn dịch.
Trong số những bệnh nhân có mức độ sao chép của virus thấp, có xu hướng hướng tới mức độ biểu hiện CD8a cao hơn khi theo dõi 24 tuần, nhưng không có protein có mức độ biểu hiện cao hơn đáng kể.
Việc đánh giá các dấu hiệu protein duy nhất liên quan đến sự mất HBsAg sau khi ngừng điều trị đang được tiến hành.
So sánh các protein khác nhau được phát hiện trong các mẫu tế bào sau 24 tuần khi ngừng điều trị. Những khác biệt này có liên quan ngay khi kết thúc điều trị, hay những protein này đang được biểu hiện trong 24 tuần giữa khi kết thúc điều trị và quyết định.
Sau 1 năm, 1 số bệnh nhân trong giai đoạn ức chế có thể tái phát.
Tài liệu tham khảo
Protein Expression May Predict HBV DNA Suppression
Neil Osterweil
July 08, 2021
Medscape.com