Tên bài:
COVID-19 Vaccine Responses Vary Among Hematological Malignancies
Jim Kling
January 08, 2022
Kết quả chính là tỷ lệ nhạy cảm huyết thanh sau 2 liều vắc-xin COVID-19 với tỷ lệ nhạy cảm huyết thanh sau 1 liều, tỷ lệ kháng thể trung hòa dương tính (nAb), các phản ứng tế bào và các tác dụng phụ là kết quả phụ.
Với 2/3 số bệnh nhân (67%) có khối u ác tính huyết học có huyết thanh dương tính sau khi tiêm 2 liều vắc xin COVID-19.
Những bệnh nhân có nguy cơ không đáp ứng cao nhất gồm những người có bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL) và những người đang điều trị bằng các liệu pháp nhắm mục tiêu tích cực và chống CD20.
Các tác giả nêu lên cần phải có những cách tiếp cận mới đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao phản ứng kém với tiêm chủng.
Hơn 80% bệnh nhân có khối u ác tính huyết nhập viện sau khi nhiễm COVID-19, và hơn 50% có bệnh nặng. Tỷ lệ tử vong có thể cao tới 30% -40%.
Nghiên cứu là 1 phân tích tổng hợp của 44 nghiên cứu trên 7064 bệnh nhân, gồm 2331 người được phân tích sau liều đầu tiên và 4733 người sau liều thứ 2 đối với các vắc xin khác nhau.
Các nhà nghiên cứu ghi nhận số liệu các phản ứng miễn dịch dịch thể và tế bào sau khi tiêm chủng. Đáp ứng dịch thể (nhạy cảm huyết thanh) được định nghĩa là mức độ có thể phát hiện được của SARS-CoV-2 tăng đột biến / globulin miễn dịch đặc hiệu miền liên kết thụ thể (IgG). Đáp ứng tế bào được định nghĩa là sự gia tăng các tế bào T CD4 + / CD8 + của SARS-CoV-2.
Kết quả tỷ lệ mẫn cảm huyết thanh ở bệnh nhân huyết học là 61% sau 2 liều vắc xin COVID-19, và 67% trong các nghiên cứu so sánh. Sau 1 liều duy nhất, tỷ lệ tương ứng là 51% và 37%.
Bệnh ác tính huyết học có liên quan đến khả năng đạt được độ nhạy huyết thanh thấp hơn so với nhóm chứng khỏe mạnh sau 2 liều và sau 1 liều.
Trong 10 nghiên cứu (22%), tỷ lệ ít nhất 1 tác dụng phụ toàn thân hoặc tại chỗ được báo cáo. Nhìn chung, tỷ lệ gộp của ít nhất 1 tác dụng phụ là 36% sau khi dùng 2 liều và 39% sau khi dùng 1 liều duy nhất.
Tỷ lệ nhạy cảm huyết thanh sau 2 liều vắc xin cao nhất ở bệnh nhân bệnh bạch cầu cấp tính và hội chứng loạn sản tủy (93%), tiếp theo là ung thư tăng sinh tủy và bệnh bạch cầu dòng tủy mãn tính (87% -88%), và thấp nhất ở bệnh nhân CLL (51%).
Các phân tích phân nhóm ghi nhận độ nhạy huyết thanh thấp nhất ở những bệnh nhân được điều trị tích cực (28%), với điều trị hiện tại hoặc trước đó 12 tháng với kháng thể kháng CD20 (19%), các liệu pháp nhắm mục tiêu (35%) và sau liệu pháp CAR-T (31%). Tỷ lệ nhạy cảm huyết thanh cao hơn ở những bệnh nhân không điều trị tích cực (61%) hoặc 12 tháng trở lên sau khi hoàn thành liệu pháp kháng CD20 (62%).