Những thay đổi về lối sống trong đại dịch COVID-19 như thời gian sử dụng thiết bị nhiều hơn và ít thời gian ở ngoài trời hơn dường như có liên quan đến việc gia tăng tỷ lệ bệnh cận thị ở trẻ em, theo nghiên cứu thanh niên của Hồng Kông nêu lên.
Các nhà nghiên cứu kiểm tra số liệu 2 nhóm trẻ em từ 6 đến 8 tuổi từ Nghiên cứu mắt trẻ em Hồng Kông theo chiều dọc: 1 nhóm được ghi danh trước đại dịch (n = 1,084) có thời gian theo dõi trung bình là 37,5 tháng và 1 nhóm được ghi danh tại bắt đầu đại dịch (n = 709) với thời gian theo dõi trung bình là 7,9 tháng.
Nhóm thuần tập trước đại dịch được nghiên cứu trong 3 năm kể từ tháng 1 / 2020, trong khi nhóm thuần tập trước đại dịch được gih danh từ ngày 1 / 12 / 2019 đến ngày 24 / 1 / 2020.
Tất cả những người tham gia được kiểm tra thị lực và hoàn thành bảng câu hỏi thói quen lối sống, gồm cả thời gian họ ở ngoài trời và trên màn hình thiết bị, cũng như các nhiệm vụ thị giác cận cảnh khác như đọc sách.
Nhìn chung, tỷ lệ trẻ em cận thị trong thời kỳ đại dịch tăng từ 19,4% lúc ban đầu lên 35,3% khi theo dõi 8 tháng. Trong cùng khoảng thời gian này, thời gian trung bình ở ngoài trời giảm từ 1,27 xuống 0,41 giờ 1 ngày và tổng thời gian thực hiện công việc hình ảnh gần tăng từ 3,42 lên 8,02 giờ mỗi ngày khi lái xe phần lớn do thời gian sử dụng màn hình tăng vọt.
Sự gia tăng đáng báo động tỷ lệ cận thị trong khoảng thời gian 8 tháng khi việc đóng cửa trường học có hiệu lực và trẻ em đi học ở Hồng Kông dành phần lớn thời gian trong nhà với điện thoại thông minh, máy tính bảng và máy tính cho cả trường học và sau giờ học, theo tác giả nghiên cứu cao cấp Jason Yam, phó giáo sư, Đại học Trung Quốc Hồng Kông.
Thời gian gần làm việc tăng lên cũng được coi là 1 yếu tố nguy cơ trong lối sống đối với sự phát triển cận thị. Có số liệu nhất quán thấy chứng cận thị nghiêm trọng liên quan đến số lượng sách đọc mỗi tuần và khoảng cách đọc gần nhau, nhưng cơ chế này vẫn chưa được hiểu rõ.
Thời gian hoạt động ngoài trời được nhiều nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau thấy có vai trò bảo vệ chống lại sự phát triển của bệnh cận thị và là ưu tiên hàng đầu trong số các khuyến cáo quốc tế đối với chiến lược kiểm soát cận thị.
Khi các nhà nghiên cứu phân tầng thanh thiếu niên theo độ tuổi, tỷ lệ cận thị trong 1 năm trong đại dịch là 28% khi 6 tuổi, 27% khi 7 tuổi và 26% khi 8 tuổi.
Ngược lại, tỷ lệ cận thị trong 1 năm trước đại dịch là 17% ở 6 tuổi, 16% ở 7 tuổi và 15% ở 8 tuổi, theo các nhà nghiên cứu báo cáo trên Tạp chí Nhãn khoa Anh.
Trong đại dịch COVID-19, sự thay đổi trong khúc xạ tương đương hình cầu (SER) và chiều dài trục lần lượt là -0,50 ± 0,51 diop và 0,29 ± 0,35 mm. Cận thị được định nghĩa là SER nhỏ hơn hoặc bằng -0,50 diop.
Một hạn chế của nghiên cứu là nó dựa vào bảng câu hỏi xác định những thay đổi trong thói quen lối sống, những thay đổi này có thể gây sự thiên vị nhớ lại.
Cũng có thể các kết quả từ Hồng Kông có thể không phản ánh những nơi có các hoạt động khác nhau đối với giãn cách xã hội, đóng cửa trường học và lệnh ở nhà trong thời kỳ đại dịch có thể ảnh hưởng đến thói quen lối sống.
Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu nêu bật các yếu tố nguy cơ của việc khởi phát và tiến triển cận thị trên trẻ em trong độ tuổi đi học, và tác động của việc điều chỉnh lối sống COVID-19 đối với tỷ lệ bệnh cận thị, theo Felicia Timmermann, Đại học Nova Southeastern, Lauderdale, Florida.
Các bác sĩ lâm sàng có thể dự đoán các kết quả tương tự trong quần thể bệnh nhân của họ và sử dụng nghiên cứu này giáo dục bệnh nhân của họ và đưa đến các khuyến cáo đối với lối sống và phương thức quản lý tình trạng cận thị ở trẻ em.
Tên bài:
Pediatric Myopia Incidence Increases During COVID-19 Pandemic
By Lisa Rapaport
August 11, 2021
Medscape.com