Dựa trên số liệu từ 1 phân tích tổng hợp của 95 nghiên cứu gồm gần 30.000.000 cá nhân, tỷ lệ tổng hợp các trường hợp nhiễm COVID-19 không có triệu chứng là 0,25% trong dân số được thử nghiệm và 40,5% trong số các trường hợp được xác nhận.
Theo Tiến sĩ Qiuyue Ma, cùng các đồng nghiệp của Đại học Bắc Kinh, Bắc Kinh, Trung Quốc báo cáo trong nghiên cứu.
Nghiên cứu được nêu trên JAMA Network Open với 44 nghiên cứu cắt ngang, 41 nghiên cứu thuần tập, 7 chuỗi trường hợp và 3 chuỗi trường hợp về các nghiên cứu lây truyền. Tổng cộng có 74 nghiên cứu được thực hiện ở các nước phát triển, gồm các nước ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu Á. Khoảng 1/3 (37) nghiên cứu được thực hiện trong số các nhân viên y tế hoặc bệnh nhân nhập viện, 17 trong số các nhân viên hoặc người dân tại viện dưỡng lão, và 14 trong số những người dân cộng đồng. Ngoài ra, 13 nghiên cứu liên quan đến phụ nữ mang thai, 8 liên quan đến khách du lịch bằng máy bay hoặc tàu du lịch, và 6 nghiên cứu liên quan đến những người tiếp xúc gần với những người nhiễm bệnh.
Phân tích tổng hợp gồm 29.776.306 cá nhân được thử nghiệm; 11.516 người trong số họ lây nhiễm không có triệu chứng.
Tỷ lệ tổng hợp các ca nhiễm không có triệu chứng trong dân số được kiểm tra là 0,25%. Trong phân tích các nhóm dân số nghiên cứu khác nhau, tỷ lệ này cao hơn ở cư dân hoặc nhân viên viện dưỡng lão (4,52%), khách du lịch bằng tàu bay hoặc tàu du lịch (2,02%) và phụ nữ mang thai (2,34%), so với tỷ lệ gộp chung.
Tỷ lệ tổng hợp của các ca nhiễm không có triệu chứng trong dân số được xác nhận là 40,50%, và tỷ lệ này cao hơn ở phụ nữ có thai (54,11%), khách đi tàu bay hoặc tàu du lịch (52,91%) và người dân hoặc nhân viên viện dưỡng lão (47,53%).
Phần trăm tổng hợp trong dân số được thử nghiệm cao hơn phần trăm tổng thể khi tuổi trung bình của dân số nghiên cứu là 60 tuổi trở lên (3,69%). Ngược lại, ở nhóm dân số được xác nhận, tỷ lệ phần trăm gộp lại cao hơn tỷ lệ phần trăm chung khi dân số nghiên cứu dưới 20 tuổi (60,2%) hoặc từ 20 đến 39 tuổi (49,5%).
Các kết quả ghi nhận sự cần thiết phải tầm soát các bệnh lây nhiễm không có triệu chứng, đặc biệt là ở các quốc gia nơi COVID-19 được kiểm soát tốt hơn. Các chiến lược quản lý các trường hợp lây nhiễm không có triệu chứng nên gồm cách ly và truy tìm tiếp xúc tương tự như các chiến lược được sử dụng với các trường hợp xác nhận.
Cần nhiều thử nghiệm hơn phát hiện sớm các trường hợp,
Trong giai đoạn đầu của đại dịch COVID-19, xét nghiệm thiếu. Với các biến thể mới, đặc biệt là biến thể Omicron, có thể bệnh nhẹ hoặc ít triệu chứng, những người mang mầm bệnh không có triệu chứng đóng 1 vai trò quan trọng trong việc lây lan đại dịch.
Cứ 400 người trong dân số nói chung thì có 1 người mang mầm bệnh COVID-19 không có triệu chứng.
Bệnh nhân ở viện dưỡng lão có nhiều nguy cơ biến chứng hơn.
Nhận thức rõ hơn tỷ lệ người mang mầm bệnh không có triệu chứng, đặc biệt là ở những người du lịch và bệnh nhân ở viện dưỡng lão. Du khách có nguy cơ lây nhiễm cao từ khu vực này sang khu vực khác trên thế giới, và nên xét nghiệm mặc dù không có triệu chứng. Bệnh nhân trong viện dưỡng lão được chẩn đoán COVID-19, với những bệnh nhân còn lại trong viện dưỡng lão và kiểm tra họ dù không có triệu chứng.
Phụ nữ mang thai nên đeo khẩu trang giúp ngăn ngừa lây truyền bệnh khi đến phòng khám bác sĩ hoặc đơn vị lao động.
Các nhà nghiên cứu khuyến cáo cung cấp các bộ dụng cụ xét nghiệm tại nhà rẻ hơn giúp tất cả các nhóm dân số dễ tổn thương có thể được xét nghiệm nhanh chóng và thường xuyên.
Tên bài:
COVID-19 Asymptomatic Infection Rate Remains High
Heidi Splete
December 14, 2021
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/964836