Điều trị hàng ngày bằng daprodustat đường uống không thua kém các tác nhân kích thích tạo hồng cầu tiêu chuẩn (ESA) giúp tăng nồng độ hemoglobin và an toàn trên tim mạch của những bệnh nhân bệnh thận mãn tính (CKD), cả những người phụ thuộc vào lọc máu và những người không, của thử nghiệm ngẫu nhiên pha 3 gồm hơn 6800 bệnh nhân.
Theo Ajay K. Singh, MBBS, Tuần lễ Thận học năm 2021, Daprodustat có thể đại diện 1 giải pháp thay thế đường uống trong điều trị thiếu máu do CKD ở cả bệnh nhân lọc máu và không lọc máu.
Đồng thời, các báo cáo thử nghiệm với bệnh nhân phụ thuộc vào lọc máu, ASCEND-D và thử nghiệm với bệnh nhân không phụ thuộc vào chạy thận, ASCEND-ND, báo cáo trực tuyến ngày 5/11 trên Tạp chí Y học New England.
Kết quả chứng minh sự không thua kém của daprodustat đường uống đối với ESA tiêm, epoetin alfa (Epogen, Procrit) hoặc darbepoetin alfa (Aranesp) được sử dụng làm tác nhân so sánh trong 2 thử nghiệm đánh giá kết quả an toàn đối với các biến cố tim mạch có hại lớn (MACE).
Đó là những đánh giá thấy 2 tác nhân khác từ cùng 1 nhóm thuốc, chất ức chế prolyl hydroxylase (HIF-PHIs) roxadustat gây giảm oxy máu và vadadustat, có những lo ngại an toàn xuất hiện trong các thử nghiệm quan trọng.
Lo ngại an toàn HIF-PHI roxadustat nhận được phản ứng tiêu cực từ ủy ban cố vấn cho Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ vào tháng 7 năm ngoái vì những lo ngại an toàn, mặc dù nó được chấp thuận ở EU.
Và kết quả từ 1 thử nghiệm giai đoạn 3 đối với tác nhân HIF-PHI vadadustat được báo cáo vào tháng 4, thấy ở những bệnh nhân bệnh CKD phụ thuộc không chạy thận được điều trị bằng vadadustat, tỷ lệ MACE không đáp ứng được tiêu chuẩn của thử nghiệm sự không thua kém so với những bệnh nhân được điều trị bằng ESA darbepoetin alfa.
Ngược lại, tính an toàn của daprodustat, dựa trên các kết quả được báo cáo đến nay thực sự tốt, theo Jay B. Wish, MD, Đại học Indiana ở Indianapolis.
Các số liệu do Singh báo cáo các biến cố huyết khối tắc mạch và huyết khối tiếp cận mạch máu, các tác dụng phụ đặc biệt có vấn đề đối với roxadustat. Báo cáo của Singh nêu lên 1 cách cụ thể những con số này và thấy sự giảm số lượng trong những tỷ lệ này so với những bệnh nhân được điều trị ESA trong số những người chạy thận nhân tạo, và sự gia tăng nhỏ ở những người đang điều trị bằng daprodustat so với điều trị ESA ở những người không chạy thận.
Trong ASCEND-ND, biến cố huyết khối tắc mạch không béo trong thời gian theo dõi trung bình 1,9 năm gặp 97 lần (ở 3,0% bệnh nhân) trong số 1917 bệnh nhân được điều trị bằng daprodustat và 65 lần (ở 2,4% bệnh nhân) trong số 1935 bệnh nhân được điều trị bằng darbepoetin alfa. Huyết khối tiếp cận mạch máu trong ASCEND-ND gặp 69 lần ở 2,1% bệnh nhân dùng daprodustat và 42 lần ở 1,5% bệnh nhân được dùng ESA.
Thuốc thuộc nhóm HIF-PHI điều trị thiếu máu ở bệnh nhân CKD hiện được đánh giá trong 1 số thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng giai đoạn 3. Kết quả ban đầu ở bệnh nhân CKD phụ thuộc vào lọc máu là đầy hứa hẹn, nhưng ở những bệnh nhân CKD phụ thuộc không chạy thận có câu hỏi các chỉ dẫn và sự đảm bảo an toàn các cuộc điều tra thêm.
Các tín hiệu an toàn được nhìn thấy với ung thư và ăn mòn
Một là tỷ lệ tử vong liên quan đến ung thư, hoặc sự tiến triển hoặc tái phát của khối u, ở những người nhận thuốc daprodustat cao hơn (3,7%) so với nhóm chứng nhận được ESA trong thử nghiệm ASCEND-ND (2,5%), đại diện 1 nguy cơ tương đối đáng kể.
Ngược lại, trong ASCEND-D, biện pháp an toàn đối với bệnh ung thư này thấy nguy cơ tương đối giảm với mức daprodustat là 0,92 so với các bộ so sánh ESA.
Tỷ lệ ung thư tăng cao là 1 mối quan tâm giả định với các tác nhân từ lớp HIF-PHI vì khả năng tăng hình thành mạch của chúng có thể hỗ trợ sự phát triển của khối u.
Một tín hiệu an toàn khác trong ASCEND-ND, tỷ lệ ăn mòn thực quản hoặc dạ dày cao hơn khi dùng daprodustat (3,6%) so với khi dùng darbepoetin alfa (2,1%), với nguy cơ tương đối đáng kể là 1,7.
Một lần nữa, tín hiệu này không có trong ASCEND-D, nơi ăn mòn thực quản hoặc dạ dày phổ biến hơn ở bệnh nhân điều trị ESA, với mức giảm nguy cơ tương đối có lợi với daprodustat là 0,74.
Ngay cả khi những tác động ung thư và suy mòn ở những bệnh nhân không chạy thận trên daprodustat là có thật, lợi ích nhiều hơn nguy cơ.
Tỷ lệ huyết khối và co giật liên quan đến thuốc ở cả ASCEND-D và ASCEND-ND đều dưới 1%.
Sự khác biệt giữa roxadustat và daprodustat có thể liên quan nhiều hơn đến việc thiết kế các nghiên cứu tương ứng của chúng hơn là sự khác biệt thuốc thực sự trong nhóm.
Có lẽ quan trọng nhất là các thử nghiệm roxadustat ở bệnh nhân CKD và không cần lọc máu trong so sánh thuốc với giả dược, trong khi ở ASCEND-ND, chất so sánh là darbepoetin alfa. Những bệnh nhân đang chạy thận nhân tạo dùng roxadustat có thể quá liều, dẫn đến sự gia tăng nhanh hơn của hemoglobin và nồng độ đỉnh cao hơn.
Tiềm năng lớn điều trị thiếu máu qua đường uống
Nhìn chung, việc có 1 giải pháp thay thế đường uống điều trị thiếu máu ở bệnh nhân CKD sẽ là 1 tiến bộ đáng kể, đặc biệt là đối với những bệnh nhân không phải chạy thận nhân tạo cũng như số lượng bệnh nhân được lọc máu tại nhà đang gia tăng nhanh chóng.
Những bệnh nhân nhận được ESA trong lần chạy thận 3 lần mỗi tuần thường rất tốt.
Tài liệu tham khảo
Oral Daprodustat Safely Improves Anemia in Chronic Kidney Disease
Mitchel L. Zoler, PhD
November 06, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/962451