Nghiên cứu mới 1 loại thuốc uống, thử nghiệm vi khuẩn gây bệnh nướu răng có thể cung cấp 1 mô hình điều trị mới trong bệnh Alzheimer (AD) từ nhẹ đến trung bình.
Kết quả từ thử nghiệm ở giai đoạn 2/3 của GAIN đối với atuzaginstat (Cortexyme Inc), với mục tiêu vào vi khuẩn nướu Porphyromonas gingivalis (Pg), mầm bệnh được coi là tác nhân tiềm ẩn của AD.
Hiệu quả và độ an toàn của thuốc ở những bệnh nhân AD nhẹ đến trung bình có nhiễm Pg; các nhà nghiên cứu tìm được liều lượng tối ưu. Điều này thể hiện 1 mô hình điều trị hoàn toàn mới trong bệnh AD, theo điều tra viên nghiên cứu Tiến sĩ Michael J. Detke, MD, Cortexyme.
Nhiễm trùng mãn tính mức độ thấp
Pg có liên quan đến bệnh nướu răng, gồm cả viêm nướu và bệnh nha chu. Bệnh nha chu ảnh hưởng đến khoảng 65 triệu người Mỹ.
Nghiên cứu trước đây nêu lên bệnh nha chu làm tăng nguy cơ AD. Một nghiên cứu được trích dẫn bởi Detke ghi nhận những người có bệnh nướu răng dạng nặng giảm 6 điểm trong thang điểm nhận thức, Thang điểm Đánh giá AD (ADAS-Cog) trong 6 tháng so với chỉ 1 điểm ở những người có bệnh nha chu nhẹ hoặc không.
Bằng chứng liên kết giữa chứng viêm với AD là phù hợp với có 1 bệnh nhiễm trùng mãn tính cấp độ thấp gây phản ứng viêm này.
Với 22 trong số 25 yếu tố nguy cơ di truyền cuối cùng được xác định trên AD liên quan đến chức năng hệ thống miễn dịch.
Pg khác với các vi khuẩn khác ở chỗ nó xâm nhập vào bên trong tế bào và dựa vào protein như 1 nguồn năng lượng thay vì đường hoặc carbohydrate. Vi khuẩn tiết các protease được gọi là gingipain có tác dụng cắt nhỏ protein thành các mảnh cung cấp năng lượng.
Atuzaginstat được thiết kế ngăn chặn thiệt hại do gingipain protease gây bệnh bằng cách cắt nguồn cung cấp thức ăn của vi khuẩn. Vì Pg nằm bên trong tế bào và có thể không hoạt động hoặc phát triển kháng thuốc, nên rất khó để tiêu diệt hoàn toàn nó bằng các loại kháng sinh thông thường.
Suy giảm nhận thức chậm lại
Thử nghiệm GAIN gồm 643 bệnh nhân nói chung khỏe mạnh từ 55 đến 80 tuổi (tuổi trung bình, 69 tuổi) có AD nhẹ đến trung bình, được đo bằng điểm từ 12 đến 24 trong bài kiểm tra trạng thái tâm thần nhỏ. Khoảng 65% là ApoE4.
Tất cả những người tham gia được chỉ định ngẫu nhiên nhận giả dược hoặc liều thấp (40 mg 2 lần 1 ngày) hoặc liều cao (80 mg 2 lần 1 ngày) của atuzaginstat trong 48 tuần.
Ngoài các kết quả nhận thức tiêu chuẩn, các nhà nghiên cứu đánh giá các dấu ấn sinh học của Pg trong nước bọt, máu và dịch não tủy (CSF).
Hai điểm cuối đồng chính là điểm số trong Nghiên cứu ADAS-Cog và AD với các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày (ADCS-ADL). Kết quả thấy cả 2 kết quả này đều không có ý nghĩa trong nhóm thuần tập có ý định điều trị tổng thể.
Tuy nhiên, khi các nhà điều tra chỉ kiểm tra những người tham gia nhiễm Pg nặng hơn, có mối tương quan giữa việc giảm mức Pg và kết quả lâm sàng tốt hơn.
Những người có hàm lượng Pg cao trong nước bọt, trong huyết thanh và dịch não tủy, trong tất cả những điều này ghi nhận thấy sự suy giảm đáng kể của ADAS-Cog từ 26% đến 57%.
Kết quả khác thấy sự suy giảm nhận thức chậm lại từ 40% đến 56%.
Cũng có mối tương quan giữa nồng độ Pg trong nước bọt ở tuần thứ 24 và kết quả lâm sàng ở cả tuần thứ 24 và 48 tuần. Nếu Pg là quan hệ nhân quả, thì sự thay đổi ở tuần thứ 24 có thể dự đoán tác động lâm sàng ở cả 2 thời điểm với kết quả laf khá quan trọng.
Hầu như không có nghiên cứu AD khác thấy mối tương quan giữa dấu ấn sinh học và kết quả lâm sàng.
Nhìn vào thể tích hồi hải mã 2 bên, các nhà điều tra cũng nhận thấy thuốc làm chậm quá trình teo 22% ở nhóm dùng liều thấp hơn và 11% ở nhóm dùng liều cao hơn. Hiệu quả tương đương với liều 40 mg và 80 mg.
Có rất ít sự khác biệt giữa nam và nữ, người mang APOE và người không mang mầm bệnh, hoặc giữa những bệnh nhân bệnh nhẹ hoặc trung bình. Có vẻ như nó đang hoạt động trên tất cả những người có mức độ lây nhiễm cao.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất là đường tiêu hóa (GI), gồm buồn nôn và tiêu chảy. Điều này có ý nghĩa vì Pg được tìm thấy trong đường tiêu hóa và có thể ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật ở một mức độ nhất định.
Tỷ lệ các sự kiện bất lợi nghiêm trọng (SAE) là quá ít giúp đưa đến kết luận. Tuy nhiên, SAE được báo cáo ở 19 thành viên trong nhóm dùng giả dược, 20 người ở nhóm dùng liều thấp và 25 người ở nhóm dùng liều cao.
Có 2 trường hợp tăng bilirubin, cả 2 đều thuộc nhóm dùng liều cao. Cũng có 5 trường hợp tử vong trong nhóm dùng liều cao, nhưng họ không được coi là có liên quan đến thuốc.
Không có lo ngại liên quan đến các bất thường hình ảnh liên quan đến amyloid (ARIA), đây là 1 lợi thế lớn so với các loại thuốc tạo amyloid.
Thuốc không loại bỏ hoàn toàn vi khuẩn. Đối với động vật nhiễm Pg, nó giảm mức độ vi khuẩn từ 80% đến 90%, nhưng không tiêu diệt được nó. Đây có lẽ là 1 phương pháp điều trị mãn tính suốt đời tương tự như 1 chất ức chế protease được sử dụng điều trị HIV.
Tài liệu tham khảo
Gum Disease Bacteria a New Treatment Target for Alzheimer’s?
Pauline Anderson
November 23, 2021
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/963574