Tên bài:
Cardiac Inflammation Can Be Present After Mild COVID Infection
Sue Hughes
January 13, 2022
Một nghiên cứu mới ghi nhận tình trạng viêm cơ tim xuất hiện với 1 tỷ lệ nhỏ bệnh nhân khỏi bệnh sau các trường hợp nhiễm COVID-19 tương đối nhẹ.
Kết quả nghiên cứu được báo cáo trực tuyến trên báo JAMA Cardiology vào ngày 12/1.
Trong số những bệnh nhân nhập viện vì covid, các nghiên cứu ban đầu ghi nhận khoảng 1/4 gặp chấn thương tim mạch, được định nghĩa là sự gia tăng nồng độ troponin, có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong từ 5 đến 10 lần. Nhưng có rất ít thông tin ghi nhận được có chấn thương tim đối với những bệnh nhân không cần nhập viện.
Mặc dù 1 loạt các mô cơ tim bất thường được báo cáo trong 1 số nghiên cứu MRI tim đối với những bệnh nhân được hồi phục sau nhiễm covid, nhưng có rất ít ghi nhận những thay đổi dai dẳng trong chuyển hóa cơ tim.
Đối với nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu kiểm tra tình trạng viêm cơ tim được đo bằng 2 phương pháp khác nhau, MRI tim và chụp cắt lớp phát xạ fluorodeoxyglucose – positron (FDG-PET) ở những người khỏi bệnh và xem xét tình trạng viêm trong máu.
Hình ảnh FDG-PET nhạy hơn MRI trong việc phát hiện tình trạng viêm đang hoạt động. Các tế bào viêm có mức hấp thụ glucose cao hơn và hình ảnh FDG-PET được sử dụng tìm kiếm các mô viêm có hoạt tính chuyển hóa chiếm glucose. MRI tim ghi nhận những thay đổi cấu trúc hoặc chức năng, chẳng hạn như sẹo hoặc phù nề, trong khi hình ảnh FDG-PET đo trực tiếp hoạt động trao đổi chất liên quan đến các tế bào viêm.
Nghiên cứu liên quan đến 47 cá nhân, 51% là nữ, với độ tuổi trung bình là 43 tuổi, những người gần đây hồi phục sau nhiễm COVID-19. Trong số này, phần lớn bệnh covid tương đối nhẹ, với 85% không cần nhập viện.
Hình ảnh tim được thực hiện trung bình 67 ngày sau khi chẩn đoán COVID-19. Tại thời điểm chụp MRI, 19 người tham gia (40%) báo cáo có ít nhất 1 triệu chứng tim mạch, gồm đánh trống ngực, đau ngực và khó thở.
Kết quả 8 bệnh nhân (17%) có hấp thu FDG khu trú trên PET phù hợp với tình trạng viêm cơ tim. So với những bệnh nhân không hấp thu FDG, bệnh nhân hấp thu FDG khu trú có T2, T1 và thể tích ngoại bào cao hơn (tạo màu khi hấp thu FDG khu trú), tần suất tăng cường gadolinium muộn cao hơn ghi nhận xơ hóa, phân suất tống máu thất trái thấp hơn, căng thẳng, và các dấu hiệu máu gây viêm toàn thân cao hơn gồm interleukin (IL) -6, IL-8, 1 protein phản ứng C có độ nhạy cao.
Trong số 47 bệnh nhân trong nghiên cứu, 13 người được tiêm ít nhất 1 liều vắc-xin COVID-19. Không có sự khác biệt đáng kể tỷ lệ bệnh nhân dương tính với PET giữa những người được chủng ngừa COVID-19 và những người chưa được chủng ngừa.
Cũng không có sự khác biệt tình trạng viêm ở những bệnh nhân nhập viện với COVID-19 và những người xử trí lây nhiễm tại nhà.
Trong số những bệnh nhân có FDG khu trú hấp thu, PET, MRI, và các dấu hiệu máu viêm được cải thiện khi chụp ảnh theo dõi được thực hiện trung bình là 52 ngày sau lần chụp đầu tiên. Những bất thường này không liên quan đến bệnh tim mạch có từ trước.
Trong số 8 bệnh nhân có kết quả FDG-PET dương tính, 2 bệnh nhân không có biểu hiện bất thường trên MRI. 2 bệnh nhân này cũng có dấu hiệu sinh học viêm tăng cao. PET là 1 phương pháp đo độ viêm tim nhạy cảm hơn.
Yếu tố nguy cơ tim duy nhất phổ biến hơn ở những người tham gia có hấp thu FDG là tăng huyết áp. Mặc dù các triệu chứng tim phổ biến gần gấp 2 ở những người tham gia có hấp thu FDG khu trú, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Một quá trình viêm toàn thân dữ dội hơn có thể góp phần gây viêm tim và hậu quả là thay đổi chức năng cơ tim.
Trên hình ảnh lặp lại 2 tháng sau đó, tất cả 8 bệnh nhân có sự hấp thu FDG ghi nhận sự cải thiện hoặc giải quyết tình trạng viêm mà không cần điều trị, mặc dù 2 bệnh nhân vẫn có 1 số dấu hiệu viêm. Các dấu ấn sinh học máu cũng được cải thiện khi theo dõi.