Các kết quả dài hạn thấy xạ trị bên trái (RT) là 1 yếu tố nguy cơ độc lập đối với bệnh động mạch vành trong tương lai (CAD) trên những người trẻ sống sót sau ung thư vú, nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục theo dõi.
Sau khi theo dõi trung bình 14 năm với hơn 900 phụ nữ được chẩn đoán bệnh ung thư vú trước 55 tuổi, tỷ lệ CAD tích lũy trong 27,5 năm là 10,5% ở những người nhận RT bên trái và 5,8% ở những người nhận RT bên phải.
Những bệnh nhân trẻ nhất, từ 25 đến 39 tuổi, nguy cơ CAD 27,5 năm với RT bên trái và bên phải lần lượt là 5,9% và 0%.
Sau khi điều chỉnh đa biến, phụ nữ được điều trị bằng RT bên trái có nguy cơ CAD cao hơn gấp 2 so với những người được điều trị bằng RT bên phải.
Những khác biệt chính trong bài báo này, thứ nhất, đó là dân số trẻ hơn so với những nghiên cứu trước đây và thứ 2, theo dõi tương đối lâu với số liệu đầy đủ các biến số quan trọng, chẳng hạn như tiền sử tăng cholesterol máu và các yếu tố khác, điều đó có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành mãn tính trong tương lai, theo Tiến sĩ Gordon P. Watt, Viện ung thư Memorial Sloan Kettering, Thành phố New York.
RT được biết là làm tăng nguy cơ CAD với những người sống sót sau ung thư vú, với 1 nghiên cứu trong 1 nhóm thuần tập cũ thấy nguy cơ biến cố mạch vành lớn tăng lên 7,4% đối với mỗi lần tăng 1 Gy liều bức xạ trung bình truyền đến tim.
Nghiên cứu hiện tại dựa trên 972 người tham gia nghiên cứu WECARE dựa trên dân số, những người không có tiền sử bệnh tim mạch trước khi chẩn đoán ung thư vú xâm lấn giai đoạn 1 hoặc 2 (tuổi trung bình, 46 tuổi) từ năm 1985 đến 2008 và hoàn thành quá trình theo dõi tim mạch tiêu chuẩn với bảng câu hỏi sức khỏe.
Liều bức xạ trung bình là 55 Gy (phạm vi, 45 – 65 Gy), 60% bệnh nhân được hóa trị và 30% được điều trị bằng anthracycline.
Trong thời gian theo dõi (phạm vi, 1 – 29 năm), 46 bệnh nhân báo cáo chẩn đoán CAD, và 91% trong số các chẩn đoán này xảy ra hơn 5 năm sau khi xạ trị.
Các kết quả liên quan đến bức xạ, chẳng hạn như bệnh tim liên quan đến bức xạ, thường có độ trễ ít nhất là 5 năm. Vì vậy, đó là lý do tại sao việc theo dõi lâu dài bệnh tim ở phụ nữ được xạ trị là rất quan trọng.
Tỷ lệ tuyệt đối của CAD trên những phụ nữ được điều trị bằng RT bên trái là 4,7 sự kiện trên 1000 người-năm, so với 2,1 sự kiện trên 1000 người-năm ở những người được điều trị bằng RT bên phải.
Có 1 tín hiệu khả năng có bệnh mạch vành cao hơn ở những phụ nữ được xạ trị, đặc biệt là bức xạ bên trái, theo Suma H. Konety, MD, Đại học Minnesota, Minneapolis.
Số lượng tuyệt đối phụ nữ có CAD vẫn còn ít và đây là bệnh mạch vành tự báo cáo trong 1 nhóm dân số đang đối phó với chẩn đoán và tiên lượng ung thư nhưng cũng được thông báo họ có nguy cơ có bệnh cơ tim do hóa trị. Vì vậy, có 1 mối quan tâm cực kỳ lớn giữa những bệnh nhân này và đôi khi họ có đau ngực và khi họ đến khám, có thể bỏ qua bệnh mạch vành.
Quan trọng hơn, các kỹ thuật bức xạ như nằm sấp, bệnh nhân nín thở và liệu pháp chùm tia proton phát triển giúp giảm thiểu.
Tên bài:
Left-Breast Radiation Tied to Doubling of CAD Risk in Young Women
Patrice Wendling
September 23, 2021
Medscape.com
Link: http://www.medscape.com/viewarticle/959342