Tên bài:
Bleeding After Reperfusion Contributes to Cardiac Injury in MI
Sue Hughes
January 06, 2022
Một nghiên cứu mới đây nêu lên tổn thương tim do nhồi máu cơ tim không chỉ là kết quả của chứng thiếu máu cục bộ do động mạch tắc nghẽn mà còn do chảy máu trong cơ tim sau khi động mạch được mở.
Quan sát này đang dẫn đến các phương pháp tiếp cận mới hạn chế kích thước ổ nhồi máu và điều trị MI.
Trong nhiều năm, xuất huyết thường thấy trong cơ tim trong các NMCT lớn, nhưng trước đây người ta vẫn chưa xác định được liệu nó có góp phần gây tổn thương hay không.
Nghiên cứu này được thực hiện xem xét và phát hiện xuất huyết dẫn đến 1 lớp tổn thương thứ 2 trên lớp thiếu máu cục bộ.
Xuất huyết này là 1 phần của hiện tượng được gọi là chấn thương tái tưới máu.
Các nhà nghiên cứu hiện đang nghiên cứu các phương pháp điều trị cố gắng ngăn chặn tình trạng xuất huyết này và / hoặc giảm thiểu ảnh hưởng của nó.
Nghiên cứu nêu lên xuất huyết có thể chiếm tới 1 nửa thiệt hại do nhồi máu cơ tim. Nếu hạn chế được điều đó, có thể giảm kích thước của nhồi máu và điều này sẽ chuyển thành kết quả lâu dài tốt hơn.
Có sự cải thiện đáng kể trong các mô hình động vật với 1 số phương pháp điều trị tiềm năng trong các nghiên cứu.
Nghiên cứu hiện tại được báo cáo trên báo Journal of the American College of Cardiology (JACC) số tháng 1 / 2022.
Theo các tác giả, chấn thương do tái tưới máu có thể góp phần làm tăng kích thước ổ nhồi máu. Các nghiên cứu trước đây nêu lên chấn thương do tái tưới máu có thể đóng góp tới 50% kích thước ổ nhồi máu cuối cùng. Sau khi tái tưới máu, các vi mạch có thể vẫn cản trở, dẫn đến xuất huyết trong cơ tim.
Nghiên cứu 70 bệnh nhân NMCT có đoạn ST chênh lên được phân loại bằng MRI tim mạch là có xuất huyết trong cơ tim hoặc không theo PCI nguyên phát, và các phép đo troponin tim nối tiếp được sử dụng đánh giá kích thước ổ nhồi máu.
Kết quả mặc dù nồng độ troponin không khác trước khi tái tưới máu, nhưng những bệnh nhân xuất huyết trong cơ tim có nồng độ troponin trong tim cao hơn đáng kể sau khi tái tưới máu và những mức này đạt đỉnh sớm hơn so với những bệnh nhân không có xuất huyết.
Trong các mô hình động vật, những con có xuất huyết trong cơ tim có sự giãn nở nhanh hơn của hoại tử cơ tim so với những con không xuất huyết, và trong vòng 72 giờ sau khi tái tưới máu, sự mất mát cơ tim có thể cứu vãn được nhiều hơn gấp 4 lần ở những NMCT xuất huyết.
Tổn thương tim vẫn tiếp diễn sau khi tái thông mạch được đo bằng cách tăng nhanh mức troponin trong tim ghi nhận xuất huyết.
Xuất huyết trong cơ tim có liên quan đến các cơn nhồi máu lớn hơn, và trong những cơn nhồi máu gây nguy cơ trên cùng 1 vùng cơ tim, những người xuất huyết sau khi tái thông mạch sẽ mất nhiều hơn những người không xuất huyết.
Theo ước tính, xuất huyết gặp ở khoảng 1 nửa số NMCT sau khi tái thông mạch máu, với các yếu tố nguy cơ gồm giới tính nam, NMCT thành trước và hút thuốc.
Chỉ gần đây các nhà nghiên cứu mới có các công cụ sử dụng giúp xác định xuất huyết trong tim bằng việc sử dụng MRI tim.
Theo Colin Berry, MBChB, Đại học Glasgow, Vương quốc Anh cùng Bác sỹ Borja Ibáñez, Bệnh viện Đại học Jiménez Díaz Foundation, Madrid, Tây Ban Nha, rất khó phân tích hoàn toàn tác động của xuất huyết so với kích thước MI đối với việc tái tạo bất lợi, có thể gặp trường hợp các biến cố thiếu máu cục bộ / tái tưới máu nghiêm trọng hơn có liên quan đến kích thước MI lớn và mức độ xuất huyết cao hơn.
Xuất huyết nội cơ tim dấu hiệu cuối cùng trong ngăn ngừa suy tim sau MI. Có thể dễ dàng phát hiện bằng cách sử dụng CMR và nghiên cứu lâm sàng đối với các phương pháp điều trị mới đang được ưu tiên.