Một chất ức chế đường uống mới của transglutaminase 2 có thể ngăn chặn tổn thương niêm mạc do gluten trên bệnh nhân có bệnh celiac có 3 liều khác nhau, dựa trên số liệu thử nghiệm chứng minh từ 132 bệnh nhân.
Theo Detlef Schuppan, MD, Đại học Johannes Gutenberg của Mainz (Đức) cùng các đồng nghiệp.
Bệnh Celiac được thúc đẩy 1 phần bởi enzym transglutaminase 2, và 1 chất ức chế transglutaminase 2 được gọi là ZED1227 được thử nghiệm an toàn trong các thử nghiệm giai đoạn 1.
ZED1227 có mục tiêu chủ yếu đến niêm mạc ruột và do đó làm trung gian bảo vệ; do đó, nó không ảnh hưởng bởi sự phức tạp của chất nền thực phẩm và ít phụ thuộc vào thời gian tiêu thụ thực phẩm có chứa gluten.
Trong một nghiên cứu được báo cáo trên Tạp chí Y học New England, các nhà nghiên cứu đánh giá tính an toàn và hiệu quả của 3 mức liều của ZED1227. Người lớn có bệnh celiac có kiểm soát được chọn ngẫu nhiên với liều 10 mg (41 bệnh nhân), 50 mg (41 bệnh nhân) và 100 mg (41 bệnh nhân), và 40 bệnh nhân được dùng giả dược. Trong số này, lần lượt có 35, 39, 28 và 30 bệnh nhân có đủ mẫu sinh thiết tá tràng.
Bệnh nhân trải qua thử thách gluten hàng ngày 3 g trong 6 tuần. Vào cuối 6 tuần, sự suy giảm tổn thương niêm mạc do gluten được đo bằng tỷ lệ giữa chiều cao nhung mao và độ sâu của nhung mao.
Bệnh nhân trong cả 3 nhóm điều trị đều thấy sự giảm thiểu đáng kể của tổn thương niêm mạc. Sự thay đổi tỷ lệ trung bình của chiều cao nhung mao và độ sâu nhung mao so với giả dược ở các nhóm 10 mg, 50 mg và 100 mg lần lượt là 0,44, 0,49 và 0,48, với giá trị P bằng 0,001 trong 10 mg nhóm; và nhỏ hơn 0,001 ở nhóm 50 mg và 100 mg.
Các tác dụng phụ tương tự nhau trên tất cả các nhóm điều trị và nhóm giả dược, ngoại trừ phát ban ở 3 bệnh nhân trong nhóm 100 mg. Tổng cộng 74 bệnh nhân báo cáo các tác dụng phụ, và phổ biến nhất là nhức đầu, buồn nôn, tiêu chảy, nôn và đau bụng. Các nhà điều tra xác định từ 34% đến 55% các tác dụng phụ giữa các nhóm có liên quan đến thuốc nghiên cứu hoặc giả dược.
Với 2 bệnh nhân phát triển các tác dụng phụ nghiêm trọng được coi là liên quan đến thuốc nghiên cứu hoặc giả dược; 1 bệnh nhân trong nhóm 50 mg phát triển chứng đau nửa aura và 1 bệnh nhân dùng giả dược phát triển ngoại tâm thu thất. Các bệnh nhân hồi phục sau khi ngừng thuốc hoặc giả dược.
Điểm cuối phụ gồm mật độ tế bào lympho trong biểu mô, điểm Chỉ số triệu chứng Celiac và điểm Bảng câu hỏi bệnh Celiac. Những thay đổi ước tính về mật độ tế bào lympho trong biểu mô, so với giả dược, là –2,7 tế bào trên 100 tế bào biểu mô ở nhóm 10 mg, −4,2 tế bào trên 100 tế bào biểu mô ở nhóm 50 mg và −9,6 tế bào trên 100 tế bào biểu mô ở nhóm 100 mg.
So với những bệnh nhân dùng giả dược, những thay đổi trong 6 tuần về điểm số Chỉ số triệu chứng Celiac và điểm số của Bảng câu hỏi về bệnh Celiac thấy những cải thiện nhẹ về các triệu chứng và chất lượng cuộc sống đối với liều 100 mg.
Các điểm mạnh của nghiên cứu gồm mức độ tuân thủ điều trị cao của bệnh nhân và thách thức với gluten. Các nghiên cứu trong tương lai về ZED1227 ở nhiều bệnh nhân hơn là cần thiết để cung cấp thêm bằng chứng tính an toàn và hiệu quả của thuốc, có khả năng trong điều kiện thực tế khi ăn ít gluten.
Không có tổn thương niêm mạc là 1 tiêu chí quan trọng để đảm bảo sức khỏe lâu dài của bệnh nhân và thử nghiệm lâm sàng này ở bệnh celiac đáp ứng tiêu chí quan trọng này, theo Bana Jabri, MD, Đại học Chicago.
Tiêu chuẩnchính của việc không có tổn thương niêm mạc là đặc biệt đáng chú ý vì nó đạt được trong thử thách có kiểm soát gluten, mặc dù với một lượng gluten tương đối vừa phải (chế độ ăn thông thường chứa 12 g gluten mỗi ngày, trong khi thử thách liên quan đến 3 g mỗi ngày). Việc giảm các triệu chứng liên quan đến bệnh tật và cải thiện rõ ràng chất lượng cuộc sống với giá trị gia tăng liều 100 mg trong các kết quả nghiên cứu.
Các lĩnh vực nghiên cứu trong tương lai gồm liệu các tế bào T phản ứng chéo, chưa được phân tích trong nghiên cứu hiện tại.
ZED1227 là phương pháp điều trị gián tiếp đầu tiên thấy sơ bộ khả năng ngăn ngừa tổn thương niêm mạc ở những người có bệnh celiac.
Bệnh celiac ảnh hưởng đến 2% dân số ở nhiều quốc gia, và liệu pháp chính của bệnh celiac là tránh gluten, theo Kim Isaacs, MD, Đại học Bắc Carolina, Chapel Hill.
Đây là 1 thách thức do tính chất phổ biến của gluten trong nhiều sản phẩm thực phẩm. Ăn uống hạn chế cũng ảnh hưởng đến giao tiếp xã hội thường tập trung vào thức ăn. Có của 1 liệu pháp uống có hiệu quả để điều trị celiac khi tiếp xúc với gluten sẽ có tác động sâu sắc đến bệnh nhân về mặt tự do hóa lượng ăn vào.
Những thay đổi chiều cao nhung mao so với độ sâu là tương tự nhau giữa tất cả các nhóm điều trị tích cực, trong khi mật độ tế bào lympho xuyên biểu mô giảm phụ thuộc vào liều lượng.
Sự cải thiện triệu chứng là lớn nhất ở nhóm 100 mg, các triệu chứng có thể liên quan đến mật độ tế bào lympho ở mức độ lớn hơn so với sự khác biệt tối thiểu về tỷ lệ chiều cao nhung mao và độ sâu nhung mao được thấy ở các nhóm điều trị tích cực.
Các rào cản tiềm ẩn đối với việc sử dụng phương pháp điều trị gồm chi phí vì đây sẽ cần phải là 1 liệu pháp lâu dài hàng ngày. Sự tuân thủ cũng là 1 rào cản tiềm ẩn.
Nghiên cứu này xem xét việc sử dụng thuốc ức chế transglutaminase 2 hàng ngày và thấy lợi ích, nhưng không rõ liệu việc bỏ lỡ liều thuốc có ảnh hưởng lâu dài đến hiệu quả. Các nghiên cứu về hiệu quả lâu dài là cần thiết. Các câu hỏi nghiên cứu khác cần trả lời gồm liệu bệnh nhân có trở nên khó chịu với các tác dụng có lợi theo thời gian, ảnh hưởng của việc thiếu liều và liệu bệnh nhân có mất tất cả các lợi ích của liệu pháp nếu liều lượng không nhất quán.
Tên bài:
Novel Oral Inhibitor May Block Intestinal Damage in Celiac Disease
Heidi Splete
July 02, 2021
Medscape.com