Số liệu cung cấp và kinh nghiệm đối với tính an toàn của vắc xin ở trẻ em trên hầu hết các tác nhân sinh học (IMB) điều chỉnh miễn dịch là đáng khích lệ, với ít tác dụng phụ nghiêm trọng và nguy cơ trầm trọng thêm bệnh cơ bản, theo vào 1 báo cáo mới.
Trong 2 thập kỷ qua, sinh học điều chỉnh miễn dịch (IMB) cách mạng hóa việc điều trị các bệnh tự động qua trung gian miễn dịch, do hiệu quả, tác dụng nhanh và khả năng dung nạp thuận lợi.
Bệnh nhân có các chứng rối loạn nhạy cảm hơn với các tác nhân gây bệnh cơ hội và thông thường, khiến các chiến lược tiêm chủng kiểm soát các bệnh có thể phòng ngừa bằng vắc xin trở thành 1 vấn đề quan trọng trong dân số này.
Có 1 số số liệu hạn chế tính an toàn, khả năng sinh miễn dịch và hiệu quả của các vắc xin hiện có ở bệnh nhân sử dụng sinh phẩm, đặc biệt là ở trẻ em.
Tiến sĩ Martire cùng các đồng nghiệp đưa đến phương pháp tiếp cận thực tế giúp các bác sĩ lâm sàng quyết định tiêm vắc-xin ở trẻ em có sử dụng sinh phẩm, dựa trên việc xem xét các tài liệu, kinh nghiệm thực tế và thực hành của Hội Dị ứng Nhi khoa Italy, SIAIP, IPINET.
Các khuyến cáo chính:
- Mối quan tâm an toàn cơ bản đối với vắc xin sống, nhưng các tương tác có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh miễn dịch và hiệu quả của 1 số vắc xin được chọn.
- Lịch tiêm chủng nên được cá nhân hóa theo tình trạng lâm sàng và miễn dịch của bệnh nhân.
- Lập kế hoạch IMB, tình trạng tiêm chủng của bệnh nhân ghi lại và hoàn thành việc tiêm chủng.
- Nếu bắt đầu điều trị, lý tưởng nhất là nên tiêm vắc xin trong thời gian bệnh thuyên giảm và khi tình trạng ức chế miễn dịch ở mức thấp nhất.
- Bệnh nhân đang điều trị IMB nên được thông báo khả năng đáp ứng miễn dịch dưới mức tối ưu.
- Tốt nhất nên tiêm vắc xin bất hoạt 2 tuần trước khi bắt đầu sử dụng sinh phẩm. Ngược lại, vắc xin sống giảm độc lực thường được chống chỉ định trong và trong nhiều tuần đến vài tháng sau khi ngừng sử dụng IMB.
- Vắc xin sống nên được sử dụng ít nhất 4 tuần trước khi bắt đầu sử dụng thuốc sinh học, trừ khi có chống chỉ định của 1 tình trạng bệnh hoặc các liệu pháp khác.
- Xét nghiệm huyết thanh tìm vi rút varicella zoster (VZV) và vi rút viêm gan B (HBV) cũng cần được xem xét.
- Đối với 1 số mầm bệnh, nồng độ kháng thể bảo vệ tồn tại thấp được chứng minh vì liệu pháp sinh học dường như đẩy nhanh sự suy giảm nồng độ kháng thể do vắc xin. Do đó, trong những trường hợp này, việc sử dụng vắc xin tăng cường là quan trọng giúp đảm bảo sự bảo vệ lâu dài.
- Nói chung, không cần đánh giá thường quy hiệu giá kháng thể trước hoặc sau chương trình tiêm chủng, vì chúng có thể không dự đoán được khả năng bảo vệ lâu dài vì miễn dịch tế bào có thể tồn tại bất kể nồng độ kháng thể.
- Xét nghiệm kháng thể đặc hiệu cần được xem xét theo từng trường hợp. Cần phải có các nghiên cứu phản ứng tế bào sau vắc xin ở trẻ em đối với các tác nhân sinh học để đánh giá vai trò của nó trong việc bảo vệ lâu dài chống lại các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin và thiết kế lịch tiêm vắc xin tối ưu.
Việc bảo vệ trẻ em được sử dụng sinh phẩm là 1 ưu tiên và khi có số liệu mới, nguy cơ tiềm ẩn tác dụng phụ của vắc xin hoặc các phản ứng dưới mức tối ưu cần được cân bằng 1 cách thích hợp.
Tài liệu tham khảo:
Vaccines Generally Appear Safe for Kids on Immune-Modifying Biologic Therapy By Reuters Staff, February 07, 2022