Các hướng dẫn hiện tại kêu gọi liệu pháp bisphosphonate từ 3 đến 5 năm dựa trên lý thuyết những loại thuốc này có thể làm giảm tái phát ung thư vú cũng như các vấn đề về xương liên quan đến điều trị.
Các kết quả mới thấy không có sự khác biệt đối với tỷ lệ sống không bệnh, ở giai đoạn xa và tỷ lệ sống sót toàn bộ, bất kể tình trạng mãn kinh giữa 1540 phụ nữ được tiêm tĩnh mạch zoledronate trong thời gian 5 năm và 1447 phụ nữ được điều trị trong khoảng thời gian 2 năm.
Nguy cơ gặp các tác dụng phụ cao hơn đáng kể khi điều trị bằng bisphosphonate kéo dài, gồm rủi ro đối với các biến cố cấp độ 3/4, đau xương, gãy xương, đau khớp và hoại tử hàm, một khả năng hiếm gặp nhưng được ghi nhận với bisphosphonate.
Trưởng nhóm điều tra Thomas Friedl, Tiến sĩ, Bệnh viện Đại học Ulm, Ulm, Đức, cùng các đồng nghiệp kết luận thời gian điều trị hiện tại có thể giảm xuống và thiếu lý do chính đáng sử dụng bisphosphonates lâu hơn, chẳng hạn như giảm mật độ xương.
Điều trị bằng zoledronate trong 5 năm không nên được xem xét ở những bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu.
Nghiên cứu được báo cáo trực tuyến vào ngày 24 / 6 trên tạp chí JAMA Oncology.
Tỷ lệ tái phát thấp với phương pháp điều trị hiện đại dưới 10% trong thử nghiệm, theo Alexandra Desnoyers, MD, Đại học Toronto, Toronto, Canada.
Zoledronate hoặc các amino-bisphosphonate khác không nên được sử dụng như 1 liệu pháp bổ trợ tiêu chuẩn đối với những phụ nữ không được lựa chọn ung thư vú.
Nguy cơ hoại tử với 5 năm Zoledronate
Những phụ nữ trong thử nghiệm ung thư vú xâm lấn nguyên phát và có nguy cơ tái phát cao. Họ có các hạch di căn hoặc các đặc điểm nguy cơ cao, gồm cả tuổi (trung bình, 53 tuổi), được điều trị tại 250 trung tâm ở Đức.
Phần đầu tiên của thử nghiệm xem xét việc sử dụng gemcitabine có cải thiện kết quả khi thêm vào docetaxel sau khi điều trị bổ trợ fluorouracil, epirubicin và cyclophosphamide chuẩn sau phẫu thuật. Báo cáo vào năm 2020, gemcitabine bổ trợ không nên được sử dụng trong điều trị ung thư vú giai đoạn đầu có nguy cơ cao.
Giai đoạn tiếp theo của thử nghiệm liên quan đến zoledronate. Phụ nữ được chỉ định ngẫu nhiên nhận zoledronate trong 2 hoặc 5 năm sau khi phẫu thuật và sau khi trải qua hóa trị. Liều là 4 mg IV 3 tháng 1 lần trong 2 năm. Những phụ nữ trong nhóm 5 năm tiếp tục được tiêm 4 mg IV mỗi 6 tháng trong 3 năm nữa.
Tại thời điểm theo dõi trung bình 5 năm sau liều zoledronate đầu tiên, không có sự khác biệt về bất kỳ biện pháp sống sót nào giữa 2 nhóm liều.
Cũng không có sự khác biệt tỷ lệ tái phát xương hoặc trong các tế bào khối u đang lưu hành. Với 10,5% phụ nữ trong nhóm 5 năm có 1 hoặc nhiều tế bào khối u lưu hành khi theo dõi, so với 7,2% ở nhóm 2 năm.
Gần 1/2 số phụ nữ trong nhóm điều trị 5 năm gặp phải các biến cố bất lợi với zoledronate gồm 7,6% với các biến cố cấp độ 3/4 so với chỉ hơn 1/4 ở nhóm điều trị 2 năm và chỉ 5,1% với các biến cố cấp độ 3/4.
Trong nhóm 5 năm, 8,3% số người đau xương và 5,1% đau khớp, so với 3,7% và 3,1% ở nhóm 2 năm.
Gãy xương không điển hình, chẳng hạn như gãy xương đùi, là 1 mối quan tâm khác với bisphosphonat. Thử nghiệm này không báo cáo về loại gãy xương, nhưng trường hợp gãy xương được báo cáo ở 14 phụ nữ trong nhóm 5 năm nhưng chỉ có 3 trường hợp ở nhóm 2 năm.
Hoại tử hàm, 1 tác dụng phụ khác của bisphosphonates, được báo cáo ở 11 phụ nữ trong nhóm 5 năm và 5 phụ nữ trong nhóm 2 năm.
Tên bài:
Huge Trial Casts Doubt on Bisphosphonates for Breast Cancer
M. Alexander Otto, MMS, PA
June 29, 2021
Medscape.com