Liệu pháp tế bào T thụ thể kháng nguyên chimeric (CAR) có tiềm năng thay thế liệu pháp hóa trị điều trị bậc 2 với những bệnh nhân có ung thư hạch bạch huyết tế bào B lớn (LBCL) tái phát hoặc không chịu được liệu pháp điều trị đầu tiên, theo kết quả của giai đoạn 3 thử nghiệm ZUMA-7 và TRANSFORM.
Trong thử nghiệm ZUMA-7, ở thời gian theo dõi trung bình là 24,9 tháng, bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên nhận liệu pháp tế bào T CAR với axicabtagene ciloleucel, hoặc axi-cell (Yescarta) có thời gian sống trung bình không có biến cố (EFS) là 8,3 tháng, so với 2 tháng đối với những bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên vào liệu pháp hóa trị liệu chăm sóc tiêu chuẩn, theo Frederick L. Locke, MD, Trung tâm ung thư Moffitt, Tampa, Florida.
Trong TRANSFORM, so sánh CAR T xây dựng lisocabtagene maraleucel, hoặc liso-cel (Breyanzi) với hóa trị liệu bậc 2 theo tiêu chuẩn chăm sóc, EFS trung bình là 10,1 tháng với liso-cel, so với 2,3 tháng với tiêu chuẩn chăm sóc.
Các thử nghiệm khác nhau nhưng kết quả tổng thể nhiều hứa hẹn với việc cải thiện liệu pháp điều trị thứ 2 trên những bệnh nhân có u lympho tế bào B lớn tái phát hoặc khó chữa (LBCL), theo Laurie Sehn, MD, MPH, Trung tâm Ung thư Lymphoid, Vancouver, Canada.
Kết quả đến nay nghiêng bên liệu pháp tế bào T CAR
Liệu pháp T CAR giúp những bệnh nhân lớn tuổi và những bệnh nhân có bệnh kèm theo có thể nhận được những liệu pháp này 1 cách an toàn.
Một liệu pháp đột phá, thể hiện sự vượt trội so với tiêu chuẩn chăm sóc, không chỉ hiệu quả mà còn là tính an toàn cực kỳ thuận lợi.
Đối với những bệnh nhân có bệnh LBCL mà liệu pháp đầu tay thất bại, liệu pháp hóa trị, sau đó là hóa trị liều cao và cấy ghép tế bào gốc tự thân (ASCT) là tiêu chuẩn chăm sóc, nhưng chỉ khoảng 25% bệnh nhân là ứng cử viên cho ASCT đạt được sự thuyên giảm lâu dài.
Cả ZUMA-7 và TRANSFORM đều được thiết kế giúp kiểm tra xem việc chuyển liệu pháp tế bào T CAR sang dòng thứ 2 có thể cải thiện kết quả.
Thử nghiệm THE ZUMA-7
Thử nghiệm THE ZUMA-7 chỉ định ngẫu nhiên 180 bệnh nhân được điều trị bằng tế bào T CAR với axi-cell và 179 bệnh nhân được chăm sóc theo tiêu chuẩn. Điều này gồm 2 hoặc 3 chu kỳ của liệu pháp hóa trị liệu xác định, do điều tra viên lựa chọn, với những bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn hoặc 1 phần sẽ chuyển sang ASCT.
Tiêu chuẩn chính của EFS theo đánh giá trung tâm làm mù ưu tiên axi-cel, với tỷ lệ sống sót sau 24 tháng không có biến cố là 41% so với 16% đối với tiêu chuẩn chăm sóc. Sự khác biệt được chuyển thành tỷ số nguy cơ đối với sự tiến triển hoặc tử vong là 0,40.
Tổng cộng, 65% bệnh nhân có đáp ứng hoàn toàn (CR) với axi-cel, so với 32% với tiêu chuẩn chăm sóc. Tỷ lệ phản hồi tổng thể tương ứng là 83% và 50%.
Kết quả 94% bệnh nhân được chỉ định axi-cel được điều trị dứt điểm, so với 36% bệnh nhân trong nhóm chăm sóc tiêu chuẩn đã tiếp tục điều trị ASCT.
Trong 1 phân tích tạm thời, tỷ lệ sống thêm ước tính trong 2 năm là 61% với axi-cel so với 52% với chăm sóc tiêu chuẩn, mặc dù sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Thời gian sống thêm trung bình không đạt được với axi-cel, so với 35,1 tháng với chế độ chăm sóc tiêu chuẩn.
Các tác dụng phụ cấp độ 3 hoặc cao hơn gặp ở 91% bệnh nhân CAR T và 83% với tiêu chuẩn chăm sóc. Trong nhóm axi-cel, 6% bệnh nhân có hội chứng giải phóng cytokine (CRS) cấp 3 trở lên và 21% có các biến cố thần kinh cấp 3 trở lên, mặc dù không có trường hợp tử vong liên quan đến CRS hoặc các biến cố thần kinh.
Thư nghiệm TRANSFORM
Thử nghiệm TRANSFORM có tiêu chuẩn đủ điều kiện rộng hơn ZUMA-7, gồm những bệnh nhân có LBCL lan tỏa không được chỉ định khác (thử nghiệm hoặc chuyển đổi từ NHL tiến triển chậm), BCL cấp cao (đánh 2 lần hoặc 3 lần) với mô học DLBCL, u lympho thể nang độ 3B, LBCL trung thất nguyên phát, hoặc LBCL giàu tế bào T / mô bào.
Có tổng cộng 184 bệnh nhân được chỉ định ngẫu nhiên, 92 bệnh nhân trong mỗi nhóm, nhận liso-cel hoặc chăm sóc tiêu chuẩn. Bệnh nhân được chỉ định dùng liso-cel được phép điều trị bắc cầu và giúp chuyển chéo sang liso-cel đối với bệnh nhân được chỉ định theo tiêu chuẩn chăm sóc hoặc không có phản ứng vào tuần thứ 9 sau khi phân nhóm ngẫu nhiên, có tiến triển bệnh hoặc bắt đầu 1 liệu pháp chống ung thư mới sau ASCT.
Trước đây, tiêu chuẩn chính của EFS ủng hộ đáng kể liệu pháp tế bào T CAR, với tỷ lệ nguy cơ là 0,349.
Tỷ lệ EFS lúc 6 tháng là 63,3% với liso-cel so với 33,4% khi chăm sóc tiêu chuẩn và tỷ lệ EFS lúc 12 tháng tương ứng là 44,5% so với 23,7%.
Số liệu tổng thể tỷ lệ sống vẫn chưa hoàn thiện tại thời điểm phân tích này, nhưng thấy xu hướng ưa chuộng liso-cel, mặc dù có sự giao nhau.
Các tác dụng phụ cấp độ 3 hoặc cao hơn (AE) gặp ở 92% bệnh nhân điều trị liso-cell và 87% bệnh nhân được chăm sóc tiêu chuẩn. Có 1 trường hợp tử vong liên quan đến điều trị ở nhóm liso-cel và 2 trường hợp ở nhóm chăm sóc tiêu chuẩn, cả 2 đều từ AE cấp 3 trở lên. Giảm bạch cầu trung tính, thiếu máu và giảm tiểu cầu là những bệnh nhân điều trị cấp cứu phổ biến nhất trong mỗi nhóm.
Tài liệu tham khảo
‘Remarkable’ Results With CAR T Cells Could Make Chemo Obsolete
Neil Osterweil
December 11, 2021
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/964646