Các nhà nghiên cứu khuyến cáo dùng sản phẩm thay thế muối thông thường.
Lượng natri trong chế độ ăn uống cao hơn, được ước tính bằng cách xác định lượng bài tiết hàng ngày từ ít nhất 2 mẫu nước tiểu trong 24 giờ, có liên quan đến việc tăng nguy cơ biến cố tim mạch trong 1 phân tích tổng hợp gồm 6 nhóm thuần tập.
Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo ít hơn 2 g natri / ngày và khuyến cáo của AHA với người lớn khỏe mạnh nói chung là ít hơn 2,3 g natri / ngày.
Và lượng kali cao hơn, được xác định theo cùng 1 cách, có liên quan đến việc giảm nguy cơ biến cố tim mạch, gồm tái thông mạch vành, nhồi máu cơ tim gây tử vong hoặc không tử vong, và đột quỵ gây tử vong hoặc không tử vong, trong hơn 8,8 năm trong số hơn 10.000 người tham gia khỏe mạnh.
Những người ở phần tư cao nhất với khả năng bài tiết natri trong 24 giờ có nguy cơ biến cố CV cao hơn 60% so với những người ở phần tư thấp nhất.
Đồng thời, những người tham gia có bài tiết kali cao nhất trong 24 giờ có nguy cơ biến cố CV thấp hơn 31% so với những người có bài tiết thấp nhất.
Nghiên cứu được báo cáo vào ngày 13/11 tại Phiên họp Khoa học của Hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) năm 2021 và đồng thời được báo cáo trực tuyến trên báo cáo Y học New England.
Kết quả có thể hỗ trợ giảm lượng natri và tăng lượng kali từ mức hiện tại, nhưng nghiên cứu chỉ mang tính chất quan sát và do đó không thể nêu lên nguyên nhân và kết quả, theo Tiến sĩ Yuan Ma, Đại học Harvard, Boston.
Nghiên cứu cùng với bằng chứng nhất quán từ các thử nghiệm ngẫu nhiên, hỗ trợ thêm tới các chính sách y tế công cộng giảm lượng natri và tăng lượng kali.
Các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ thấy nhiều quy định và hành động hơn thực hiện các chiến lược giảm muối, chẳng hạn như đặt mục tiêu giảm muối trong ngành thực phẩm, ghi nhãn thực phẩm, cải cách thực phẩm và thúc đẩy hành vi lành mạnh.
Bảo đảm hạn chế Na hợp lý
Các nhà nghiên cứu tổng hợp số liệu từ 6 nhóm thuần tập: Nghiên cứu Theo dõi Chuyên gia Y tế (HPFS); Nghiên cứu Sức khỏe Điều dưỡng (NHS); Nghiên cứu Sức khỏe Điều dưỡng II (NHS II); nghiên cứu Phòng ngừa bệnh thận và mạch máu giai đoạn cuối (PREVEND); và Các nghiên cứu tiếp theo trong các thử nghiệm phòng ngừa Tăng huyết áp (TOHP I và TOHP II).
Nhìn chung, đây là 1 nghiên cứu được tiến hành tốt bổ sung vào các tài liệu liên quan đến lượng natri (sử dụng bộ thu thập natri trong nước tiểu 24 giờ làm chất thay thế) và kết quả CV, theo Nayan Arora, MD.
Với việc bài tiết natri trong nước tiểu thấp có liên quan đến các biến cố CV cao hơn, điều này được mô tả trước đây trong các nghiên cứu có phương pháp luận đáng ngờ trong đánh giá lượng natri ăn vào, chẳng hạn như nghiên cứu PURE trong đó natri được xác định từ nước tiểu tại chỗ.
Theo Giáo sư Arora, Khoa Thận, Đại học Washington, Seattle, bổ sung vào những phát hiện của nghiên cứu TOHP, vốn cũng không thấy nguy cơ các biến cố CV tăng lên ở mức độ tiêu thụ natri thấp hơn bằng cách lấy nước tiểu 24 giờ.
Những hạn chế của nghiên cứu gồm những hạn chế cố hữu của các nghiên cứu quan sát, và nó chủ yếu ở những cá thể da trắng nói chung khỏe mạnh nên không thể khái quát hóa các quần thể khác, điều mà các nhà nghiên cứu cũng thừa nhận.
Mặc dù có sự giảm đáp ứng với liều trong các biến cố CV khi giảm lượng natri ăn vào trong biểu đồ spline của mối liên quan, chỉ có sự khác biệt giữa phần tư 4 (bài tiết natri trung bình hàng ngày là 4692 mg) và phần tư 1 (2212 mg) là có ý nghĩa; điều này cũng đúng với kali.
Kết quả nghiên cứu này 1 lần nữa thấy mức độ hạn chế natri hợp lý được đảm bảo. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chưa trả lời câu hỏi liệu các giới hạn hà khắc như khuyến cáo của các tổ chức y tế khác nhau có được đảm bảo hay không.
Tăng kali trong chế độ ăn có liên quan đến kết quả cải thiện và mặc dù nghiên cứu này cung cấp thêm độ tin cậy điều này, thử nghiệm SSaSS cung cấp 1 trường hợp mạnh mẽ hơn nhiều.
SSaSS là 1 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên theo cụm với hơn 20.000 người có nguy cơ có bệnh tim mạch cao (> 70% có tiền sử đột quỵ), trong đó những người tham gia được chọn ngẫu nhiên 100% natri clorua hoặc thay thế muối bằng 75% natri clorua và 25% kali clorua.
Điều này dẫn đến việc giảm ấn tượng các sự kiện CV mặc dù chỉ giảm ~ 8% natri, mặc dù tăng khoảng 55% kali.
Mối liên hệ gây tranh cãi giữa Natri và CVD
Mối quan hệ giữa lượng natri ăn vào và bệnh tim mạch vẫn còn gây tranh cãi, 1 phần là do đánh giá không chính xác định lượng natri ăn vào.
Các nhà nghiên cứu nêu lên sự khác biệt lớn hàng ngày trong bài tiết natri và các lỗi ghi nhận mẫu có thể gặp trong 1 lần nước tiểu 24 giờ và sai số khi ước tính lượng bài tiết 24 giờ từ nước tiểu tại chỗ. Các cá nhân có thể giảm lượng natri do bệnh tật kèm theo có từ trước, dẫn đến sai số nhân quả ngược lại.
Do đó, các nhà nghiên cứu nêu lên nghiên cứu mối liên hệ giữa lượng natri ăn vào và bệnh tim mạch ở những người khỏe mạnh cung cấp ít nhất 2 lần lấy nước tiểu trong 24 giờ.
Nghiên cứu 10.707 người tham gia từ 6 nhóm có độ tuổi trung bình là 51 tuổi, 54% là phụ nữ và 92% là người da trắng. Trung bình, họ có chỉ số khối cơ thể (BMI) trung bình là 26,6 kg / m2, 2,4% bệnh tiểu đường, 24% tăng huyết áp và 30% tăng cholesterol trong máu.
Trong thời gian theo dõi trung bình 8,8 năm, có 571 sự kiện CV.
Bài tiết natri cao hơn, bài tiết kali thấp hơn và tỷ lệ natri-kali cao hơn đều có liên quan đến nguy cơ CV cao hơn, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu.
Mỗi lần tăng bài tiết natri 1000 mg / ngày có liên quan đến tăng 18% nguy cơ biến cố tim mạch.
Và mỗi lần tăng bài tiết kali 1000 mg / ngày có liên quan đến giảm 18% nguy cơ biến cố tim mạch.
Các nhà nghiên cứu ước tính lượng natri và kali trong chế độ ăn uống, giả định 93% natri và 77% kali trong chế độ ăn được bài tiết qua nước tiểu.
Nhìn chung, những người tham gia trong phân tích tổng hợp này có lượng natri ước tính khoảng 2000 đến 6000 mg / ngày và lượng kali khoảng 2000 đến 5000 mg / ngày.
DASH và Chế độ ăn Địa Trung Hải
Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo ít hơn 2 g natri / ngày và khuyến cáo của AHA với người lớn khỏe mạnh nói chung là ít hơn 2,3 g natri / ngày.
Phát hiện phù hợp với số liệu từ các thử nghiệm can thiệp chế độ ăn uống, chẳng hạn như chế độ ăn kiêng DASH và chế độ ăn Địa Trung Hải.
Cắt giảm lượng muối, mọi người có thể chuẩn bị bữa ăn từ nguyên liệu tươi và thêm ít muối. Họ cũng có thể kiểm tra nhãn thực phẩm và hàm lượng natri trong các cửa hàng tạp hóa và chọn các tùy chọn ít natri, chuyển đổi 1 g natri thành 1 g muối, nhân với 2,5 và 5,8 g muối là khoảng 1 thìa cà phê.
Thực phẩm giàu kali gồm trái cây, rau (chẳng hạn như lá xanh, đậu và bí), các loại hạt và thực phẩm từ sữa.
Chế độ ăn kiêng DASH và Địa Trung Hải là những lựa chọn tuyệt vời của bệnh nhân, không chỉ hạn chế natri, mà còn là 1 cách cung cấp vô số chất dinh dưỡng cần thiết và có lợi trong khi tránh thực phẩm chế biến sẵn, đóng 1 vai trò quan trọng trong vấn đề ăn kiêng.
Từ quan điểm dân số, đến khi 1 thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên thực sự việc hạn chế natri được thực hiện, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào việc thay thế muối như được thực hiện trong SSaSS, cung cấp tới mọi người 1 giải pháp thay thế, thay vì chỉ đề xuất chế độ ăn ít natri.
Tài liệu tham khảo
Lower Urinary Sodium, Higher Potassium Tied to Lower CV Risk
Marlene Busko
November 17, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/963153.