Dấu ấn sinh học peptid lợi niệu loại C (CNP) đang được thăm dò vừa là yếu tố dự báo nguy cơ vừa là mục tiêu phát triển thuốc mới đối với các tình trạng bệnh lý tim mạch và thận.
CNP có tiềm năng chẩn đoán và điều trị suy tim, tăng huyết áp và bệnh thận, theo S. Jeson Sangaralingham, Tiến sĩ, Phòng khám Mayo, Rochester, Minnesota.
Nghiên cứu hiện tại thấy nồng độ CNP trong nước tiểu và huyết tương đều có giá trị tiên đoán việc nhập viện lại và tử vong của bệnh nhân suy tim cấp mất bù (ADHF).
Sangaralingham là tác giả chính của báo cáo được báo cáo trực tuyến trên Tạp chí JACC Heart Failure vào ngày 7/7, với tác giả đầu tiên là Tiến sĩ Xiao Ma, Mayo Clinic.
Lợi niệu CNP, peptide lợi tiểu natri thứ 3 được phát hiện, sau ANP và BNP, là 1 loại hormone được sản xuất chủ yếu bởi thận và nội mô của mạch máu mà còn do tim. Có tác dụng chống xơ hóa làm giảm sự cứng của các cơ quan; trong tim có tác dụng chống tăng huyết áp và nó làm giãn mạch máu.
Nồng độ CNP tăng trong huyết tương và / hoặc nước tiểu có thể báo hiệu các vấn đề về tim, mạch máu hoặc thận, vì nó có các tác dụng bảo vệ bù đắp. Có rất ít loại thuốc chống xơ hóa cũng cấp hiện nay nhắm vào tim hoặc thận.
Tim xơ hóa có thể dẫn đến suy tim khi chất nền ngoại bào tăng quá mức khiến nó không bơm hoặc thư giãn tối ưu. Có thể gặp trong các trường hợp nhồi máu cơ tim và tăng huyết áp, khi xơ hóa cũng có thể ảnh hưởng đến các mạch máu. Sự xơ hóa này đại diện 1 mục tiêu can thiệp mới.
Là 1 dấu ấn sinh học, nồng độ CNP tăng trong cả huyết tương và nước tiểu thấy nguy cơ gia tăng các kết cục lâm sàng bất lợi.
CNP hoàn toàn không được đo trong môi trường lâm sàng.
Một ưu điểm chính của CNP là nó có thể được đo trong nước tiểu. Việc lấy mẫu nước tiểu rất dễ dàng. Và việc đánh giá bằng que nhúng, có khả năng có thể được thực hiện tại nhà, vì vậy bệnh nhân sẽ không phải đến phòng khám. Điều đó dễ dàng hơn rất nhiều so với xét nghiệm máu. Nhưng chúng ta cần phát triển cả 2 phương pháp này, xét nghiệm nước tiểu và máu.
Mức độ CNP có thể được đo lường như 1 xét nghiệm sớm trong tổn thương nội tạng. Những bệnh nhân có mức tăng cao sau đó có thể được đánh giá rộng rãi hơn.
Đối với nghiên cứu hiện tại, CNP trong nước tiểu và huyết tương được đo ở 109 đối tượng khỏe mạnh và 208 bệnh nhân suy tim mất bù cấp tính.
CNP trong nước tiểu và huyết tương tăng đáng kể ở bệnh nhân ADHF, và cả 2 dấu hiệu đều tăng theo mức độ bệnh. Cả nồng độ niệu và huyết tương cũng có tương quan thuận với nồng độ peptide bài niệu pro-B-T (NT-proBNP) trong huyết tương, nhưng cung cấp thêm thông tin tiên lượng độc lập với NT-proBNP.
Trong số những bệnh nhân ADHF, 23% có mức tăng CNP trong nước tiểu và huyết tương, trong khi 24% có mức CNP bình thường. Trong thời gian theo dõi trung bình 3 năm, những bệnh nhân có nồng độ nước tiểu và huyết tương tăng cao thấy nguy cơ nhập viện lại hoặc tử vong cao hơn đáng kể (tỷ số nguy cơ [HR], 1,79; P = 0,03) và nhập viện lại (HR, 2,16; P = .01) sau khi điều chỉnh theo tuổi, giới tính, phân suất tống máu thất trái, chức năng thận và NT-proBNP huyết tương.
Việc bổ sung xét nghiệm CNP trong nước tiểu và huyết tương vào các mô hình nguy cơ dự đoán kết cục kém trên bệnh nhân ADHF.
Nồng độ CNP tăng thấy nguy cơ các kết cục bất lợi cao hơn, thấy những bệnh nhân này cần được điều trị tích cực hơn. Và nồng độ CNP tăng thấy thông tin tiên lượng bổ sung ngay cả khi tính đến mức BNP và các dấu ấn sinh học khác.
Nồng độ CNP trong nước tiểu và huyết tương không có mối tương quan đáng kể, mức độ của chúng có thể cung cấp những hiểu biết sinh học khác biệt cả quần thể khỏe mạnh và ADHF.
Đây sẽ là 1 lĩnh vực phát triển nhanh chóng thú vị trong lĩnh vực tim mạch và thận có thể làm giảm gánh nặng bệnh tật trong tương lai.
Tên bài:
‘New’ Natriuretic Peptide Shows Unique Biomarker Potential
Sue Hughes
July 21, 2021
Medscape.com