Chỉ có 1 trẻ trong nhóm 45 trẻ nhập viện với hội chứng viêm đa hệ sau nhiễm COVID-19 có rối loạn chức năng tim nhẹ dai dẳng sau 9 tháng, theo số liệu từ những bệnh nhân dưới 21 tuổi được khám tại 1 trung tâm duy nhất vào năm 2020.
Trong 1 nghiên cứu được báo cáo trên tạp chí Pediatrics, Kanwal M. Farooqi, MD, Đại học Columbia, New York cùng các đồng nghiệp cung cấp báo cáo đầu tiên với kết quả miễn dịch và tim mạch theo chiều dọc của trẻ em Bắc Mỹ nhập viện với hội chứng viêm đa hệ (MIS-C).
Các bác sĩ lâm sàng tại Bệnh viện New York – Presbyterian hợp nhất việc nhập viện nhi khoa và phát triển 1 chương trình theo dõi MIS-C nội trú và ngoại trú liên khoa theo dõi kết quả tim mạch và miễn dịch của bệnh nhân.
Nghiên cứu gồm tất cả trẻ em dưới 21 tuổi được nhận vào Trung tâm Y tế Irving của Đại học Columbia / New York–Presbyterian Morgan Stanley Children’s Hospital có MIS-C vào năm 2020.
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 9 tuổi và thời gian nằm viện trung bình là 5 ngày. Các lần tái khám vào thời điểm 1-4 tuần (trung bình 2 tuần), 1-4 tháng (trung bình 2 tháng) và 4-9 tháng (trung bình 6 tháng) sau khi xuất viện.
Các lần tái khám gồm siêu âm tim và đo các dấu hiệu viêm.
Hầu hết trẻ em (84%) không có bệnh lý cơ bản, nhưng 24% có biểu hiện suy hô hấp hoặc nhu cầu oxy, và 64% có sốc giãn mạch. 80% có ít nhất bất thường nhẹ về tim và 66% có giảm bạch huyết đáng kể khi nhập viện.
Hồ sơ viêm khi nhập viện thấy sự gia tăng của protein phản ứng C, ferritin và D-dimer ở 87% -98% bệnh nhân. Phù hợp với liên quan đến tim, 64% bệnh nhân cũng có nồng độ troponin tăng cao và 91% có nồng độ peptide natri lợi niệu đầu cuối N (NT-proBNP) tăng cao.
Các thông số này đạt đỉnh vào lúc hoặc ngay sau khi nhập viện và sau đó dần dần bình thường hóa. Vào lần theo dõi đầu tiên, protein phản ứng C, troponin và NT-proBNP bình thường hóa ở gần như tất cả các bệnh nhân được thử nghiệm (97% -100%).
Vào thời điểm theo dõi đầu tiên lúc 1-4 tuần, tất cả bệnh nhân đều có động mạch vành bình thường, và 18% (7 bệnh nhân) có phát hiện bất thường nhẹ trong siêu âm tim.
Tuy nhiên, khoảng 1/3 (32%) bệnh nhân tăng tế bào lympho dai dẳng sau 1-4 tuần, và 23 trong số 24 bệnh nhân được đánh giá có tế bào T âm tính kép tăng cao, vẫn tồn tại ở 96% bệnh nhân sau 1-4 tháng.
Trong thời gian theo dõi 4-9 tháng cuối cùng, chỉ có 1 bệnh nhân rối loạn chức năng 2 lá nhẹ dai dẳng và bệnh nhân thứ 2 hở van 2 lá và van 3 lá nhẹ.
Tất cả bệnh nhân đều được điều trị bằng steroid và globulin miễn dịch (2 g / kg), cũng như dự phòng enoxaparin hoặc aspirin liều thấp và dự phòng GI.
Điều trị bằng methylprednisolone khác nhau tùy theo mức độ bệnh; bệnh nhân có biểu hiện nhẹ nhận 2 mg / kg mỗi ngày; những người có biểu hiện trung bình nhận được xung methylprednisolone 10 mg / kg mỗi ngày, tiếp theo là 2 mg / kg mỗi ngày; những người bệnh nặng được dùng methylprednisolone với liều 20-30 mg / kg mỗi ngày trong 1-3 ngày, tiếp theo là 2 mg / kg mỗi ngày.
Việc sử dụng steroid tích cực cũng có thể giải thích tỷ lệ bất thường động mạch vành thấp hơn trong nhóm.
Sự tồn tại của các tế bào T âm tính kép là điều đáng ngạc nhiên, và có khả năng đại diện với 1 quần thể tế bào phục hồi sau viêm kéo dài.
Các kết quả trung hạn thường đáng khích lệ, gồm bình thường hóa nhanh chóng các dấu hiệu viêm và những bất thường đáng kể của tim mạch với phần lớn bệnh nhân MIS-C.
Bản chất chính xác và khả năng gây xơ hóa tim lâu dài, không dung nạp tập thể dục hoặc những thay đổi khác vẫn chưa được biết rõ.
Susan Boulter, MD, Trường Y Geisel tại Dartmouth, Hanover, N.H
rất nhiều bệnh nhân có kết quả tích cực của chức năng tim và trong giai đoạn cấp tính không có trường hợp tử vong. Thời gian nhập viện ngắn, trung bình chỉ 5 ngày. Bệnh nhân có nhiều triệu chứng, nhưng không giống như người lớn, không có ưu thế với các yếu tố nguy cơ tiềm ẩn trong nhóm bệnh nhân này.
Những bệnh nhân này nên được theo dõi trong nhiều năm ghi nhận theo dõi ảnh hưởng lâu dài đến bệnh tật và tử vong.
Tên bài:
Long-term Outcome Data Suggest Optimism for Patients With MIS-C
Heidi Splete
July 19, 2021
Medscape.com