Trong số những phụ nữ sau mãn kinh được tiêm steroid ngoài màng cứng (ESI) vào cột sống thắt lưng trong điều trị đau lưng và chân do dây thần kinh chịu nén ở cột sống, mức độ của dấu ấn sinh học hình thành xương giảm xuống. Kết quả từ 1 nghiên cứu mới ghi nhận sự sụt giảm mức độ kéo dài hơn 12 tuần.
Ngoài ra, nồng độ cortisol huyết thanh giảm 50% ở tuần thứ 1 sau ESI, thấy sự hấp thu toàn thân của steroid.
Shannon Clare báo cáo tại Hội Nghiên cứu xương và khoáng chất Hoa Kỳ (ASBMR), mức độ và thời gian của những tác động này thấy những bệnh nhân nhận nhiều ESI ở cột sống thắt lưng có thể có nguy cơ đặc biệt đối với các hậu quả có hại trên xương.
Các nhà nghiên cứu kiểm tra những thay đổi trong nồng độ huyết thanh của các dấu hiệu hình thành và tái hấp thu xương và các phân tích khác trên 24 phụ nữ nhận được ESI thắt lưng vì đau lưng dạng thấu kính và trên 8 phụ nữ khác từ bệnh viện, những người từng là người kiểm soát.
Trong số những phụ nữ nhận được ESI, 1 tuần sau khi tiêm, nồng độ huyết thanh của hai dấu ấn sinh học hình thành xương, tổng procollagen loại 1 N-end propeptide (P1NP) và osteocalcin – thấp hơn khoảng 27% so với lúc ban đầu, tình trạng kéo dài hơn 12 tuần.
Nồng độ trong huyết thanh của telopeptide đầu cuối C của collagen loại I (CTX) không khác biệt đáng kể sau ESI.
Thời gian ức chế hình thành xương kéo dài hơn 12 tuần, 1 thời gian dài hơn so với trước đây khi tiêm glucocorticoid trong khớp, bệnh nhân không nên tiêm nhiều liều trong vòng 12 tuần.
Phụ nữ thường không được sàng lọc chứng loãng xương hoặc loãng xương trước ESI. Tuy nhiên, kết quả thấy các bác sĩ nên xem xét sàng lọc những phụ nữ loãng xương có nhận ESI, đặc biệt là những người được điều trị bằng nhiều liều. Việc tiếp xúc với steroid nên được giảm thiểu càng nhiều càng tốt bằng cách cho bệnh nhân tiêm thuốc vào khoảng không gian mà họ có thể chịu đựng được.
Hấp thụ toàn thân, tác động tiêu cực đến các dấu hiệu vòng quay của xương, theo giáo sư Mohamad Bydon, MD, Mayo Clinic, giả thuyết ESI can thiệp vào vi môi trường xương đốt sống và làm tăng nguy cơ gãy đốt sống được chứng minh bằng bằng chứng trong tài liệu.
Cũng theo Bydon, tác giả cấp cao của 1 đánh giá năm 2018 đối với tác động của ESI đối với BMD và nguy cơ gãy đốt sống được báo cáo trên tạp chí Pain Medicine, các nghiên cứu trước đây chứng minh sự giảm mật độ khoáng xương (BMD) và sự gia tăng gãy xương đốt sống sau ESI.
Bài báo của Clare cùng cộng sự cung cấp bằng chứng sự hấp thu toàn thân của glucocorticoid bằng cách chứng minh sự sụt giảm cortisol huyết thanh sau ESI. Việc đo lường các dấu ấn sinh học chuyển hóa xương cung cấp xác nhận phân tử của các quan sát lâm sàng và X quang của các nghiên cứu trước đây thấy ESI ảnh hưởng đến đốt sống.
Hơn 9 triệu ESI mỗi năm
Mỗi năm, hơn 9 triệu ESI được sử dụng trên bệnh nhân ở Hoa Kỳ giảm đau lưng và chân dạng thấu kính có thể do thoát vị đĩa đệm hoặc chứng hẹp ống sống, tình trạng thu hẹp dần các không gian mở trong cột sống, thường gặp trên người lớn tuổi.
Một số bệnh nhân cảm thấy giảm đau đủ với ESIs. Những người khác có thể không đủ điều kiện để phẫu thuật và có thể nhận được nhiều ESI hàng năm trong nhiều năm vì chúng giúp giảm đau.
Glucocorticoid uống và tiêm tĩnh mạch ức chế sâu sắc sự hình thành xương và làm tăng nhanh quá trình tiêu xương, gây mất xương đáng kể và tăng nguy cơ gãy xương trong vòng 3 tháng dùng thuốc.
Sử dụng glucocorticoid dạng hít liều cao trong thời gian dài có liên quan đến mất xương và gãy xương. Tuy nhiên, ảnh hưởng của ESIs đối với xương còn ít được nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu đưa giả thuyết ESIs được hấp thụ 1 cách hệ thống và gây sự ức chế sự hình thành xương mà không làm giảm quá trình tiêu xương bù đắp.
Các nhà nghiên cứu ghi nhận 24 bệnh nhân trải qua ESIs thắt lưng và 8 bệnh nhân đối chứng. Tuổi trung bình của bệnh nhân trong 2 nhóm lần lượt là 63 tuổi và 68 tuổi. Hầu hết bệnh nhân là người da trắng (lần lượt là 88% và 100%). Chỉ số khối cơ thể trung bình lần lượt là 27 kg / m2 và 28 kg / m2. Trung bình, các bệnh nhân bước vào thời kỳ mãn kinh sớm hơn 12 và 16 năm.
Trong nhóm được tiêm steroid, gần 2/3 (15 bệnh nhân, 63%) được tiêm triamcinolone. Những người còn lại được dùng dexamethasone (6 bệnh nhân, 25%) hoặc betamethasone (3 bệnh nhân, 12%) với liều tương đương với 80 mg triamcinolone.
Nồng độ cơ bản trong huyết thanh của bệnh nhân của 25-hydroxy vitamin D, hormone tuyến cận giáp, cortisol, P1NP, osteocalcin và CTX nằm trong phạm vi tham chiếu và tương tự nhau ở 1 nhóm.
Các nhà nghiên cứu cũng xác định nồng độ cortisol trong huyết thanh (đánh giá sự ức chế glucocorticoid nội sinh), osteocalcin, P1NP và CTX ở bệnh nhân và những người đối chứng vào 1, 4, 12, 26 và 52 tuần sau khi bệnh nhân nhận được ESI.
Các nhà nghiên cứu thừa nhận mẫu nhỏ là 1 hạn chế của nghiên cứu. Các mẫu huyết thanh đầu tiên được lấy 1 tuần sau khi tiêm, và do đó, bất kỳ thay đổi trước đó trên nồng độ chất phân tích đều không được ghi lại. Các bệnh nhân cũng nhận được các loại steroid khác nhau, mặc dù liều lượng tương tự nhau khi chuyển đổi thành triamcinolone tương đương.
Tên bài:
Lumbar Epidural Steroid Jab Lowers Bone Formation in Older Women
Marlene Busko
October 15, 2021
Medscape.com
Link: http://www.medscape.com/viewarticle/960948