Kết quả của 1 nghiên cứu tiêu chuẩn vàng được báo cáo ngày 2/11 trên tạp chí JAMA hứa hẹn giảm thời gian điều trị kháng sinh trên bệnh nhi có viêm phổi.
Tiến sĩ Julia Bielicki, Đại học St George’s, London, Vương quốc Anh, nhóm nghiên cứu của thử nghiệm CAP-IT, lo ngại việc thúc đẩy sử dụng kháng thuốc kháng sinh, các nhà nghiên cứu đang cố gắng giảm thời gian của các khóa học kháng sinh.
Trong CAP-IT, 814 trẻ em ban đầu nhập viện vì viêm phổi hoặc được điều trị tại khoa cấp cứu được chỉ định ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1: 1 để nhận amoxicillin uống với liều thấp hơn (35–50 mg / kg / ngày) hoặc liều cao hơn (70–90 mg / kg / ngày) và nhận1 đợt kháng sinh ngắn hơn (3 ngày) hoặc một đợt kháng sinh dài hơn (7 ngày). Đối với việc quản lý kháng sinh dung dịch uống, việc làm tròn liều lượng đến mL gần nhất sẽ dễ dàng hơn.
Hội các bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA) và Hội các bệnh truyền nhiễm Nhi khoa khuyến cáo không nên sử dụng định kỳ chụp X-quang phổi (CXR) trên trẻ em ngoại trú nghi ngờ có viêm phổi. Bất chấp khuyến cáo đó, CXRs đạt được trong> 80% trường hợp trong 1 nghiên cứu trên 30 khoa cấp cứu Hoa Kỳ. Việc sử dụng CXR là 1 vấn đề rất dễ gây tranh cãi. Tại Vương quốc Anh, chẩn đoán CAP dựa trên khám lâm sàng, theo khuyến cáo của Hội nồng ngực Anh.
Điểm cuối so sánh là tái điều trị kháng sinh trong vòng 28 ngày, và kết quả khá ấn tượng. Cần điều trị lại kháng sinh ở 12,6% những người dùng liều thấp hơn và 12,4% ở những người dùng liều cao hơn. Tương tự, 12,5% nhóm 3 ngày cần điều trị lại so với 12,5% nhóm 7 ngày. Cả 2 sự khác biệt đều thấp hơn nhiều so với biên độ không thua kém 8%. (IDSA sử dụng biên độ không thua kém 10% trong các thử nghiệm của mình.)
Triệu chứng là 1 kết quả phụ và không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm.
Ban đầu, 42% trẻ em nhiễm khuẩn Streptococcus pneumoniae. Trong 17% trường hợp đó, S pneumoniae không mẫn cảm với penicillin. (Không nhạy cảm với penicillin được định nghĩa là nồng độ ức chế tối thiểu MICđối với penicillin> 0,1 μg / mL). Không có phế cầu kháng penicillin được xác định (MIC đối với penicillin ≥2,0 μg / mL) tại bất kỳ thời điểm trong quá trình nghiên cứu.
Các tác dụng phụ thường gặp nhất ở tất cả trẻ em là tiêu chảy (44%), phát ban (24%) và tưa miệng (7%). Không có sự khác biệt đáng kể các triệu chứng này giữa các nhóm điều trị. Nhiều trẻ hơn trong liệu trình 3 ngày hoàn thành toàn bộ phác đồ điều trị.
Dân số nghiên cứu là yếu tố quan trọng nhất trong việc xem xét liều lượng và thời gian của amoxicillin, khoảng 95% được tiêm chủng của Vương quốc Anh gồm Prevnar 13, với các chủng gây bệnh nghiêm trọng và kháng kháng sinh cao hơn. Việc biết các chủng nguy cơ cao không có khả năng khuyến cáo xem xét amoxicillin uống liều thấp hơn và thời gian ngắn hơn.
Trẻ em CAP nặng loại khỏi nghiên cứu này. CAP nặng thường có nghĩa là các trường hợp có liên quan đến nhiễm trùng huyết, bệnh phức tạp hoặc được chăm sóc ở cấp đơn vị chăm sóc đặc biệt. Theo hướng dẫn CAP dành cho trẻ em của IDSA, liều lượng 2 lần mỗi ngày sẽ không phải là tối ưu trong việc thiết lập các chủng có MIC cao hơn.
Có thể áp dụng trên trẻ nhỏ được tiêm chủng đầy đủ ở những khu vực không có phế cầu kháng thuốc đáng kể đang được điều trị CAP nhẹ đến trung bình. Lợi ích của liệu trình ngắn hơn gồm ít tác dụng phụ hơn và giảm nguy cơ phát triển thêm tình trạng kháng kháng sinh.
Có thể giảm phơi nhiễm kháng sinh đối với trẻ em viêm phổi mắc phải trong cộng đồng và điều này sẽ đặc biệt quan trọng đối với việc điều trị với trẻ em ở các nước có thu nhập thấp và trung bình.
Tên bài:
Pediatric Community Acquired Pneumonia: Lower Amoxicillin Dose and Shorter Duration May Be Effective
Judy Stone, MD
November 04, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/962250