Một phương trình rủi ro mới có thể ước tính chính xác nguy cơ bệnh thận mãn tính (CKD) tiến triển thành bệnh thận giai đoạn cuối (ESKD), nhóm phát triển từ Pháp và Đức báo cáo.
Phương trình nguy cơ “Z6” dựa trên 6 xét nghiệm thông thường trong phòng thí nghiệm: creatinine huyết thanh, albumin, cystatin C, urê, hemoglobin và tỷ lệ albumin-creatinine trong nước tiểu.
Điểm nguy cơ Z6 được phát triển bằng cách sử dụng 1 nhóm gồm 4.915 bệnh nhân CKD và được xác nhận trong 3 nhóm độc lập với tổng số 3.063 bệnh nhân CKD. Bệnh nhân được theo dõi trong khoảng 5 năm để tiến triển thành ESKD cần điều trị thay thế thận (KRT).
Trong nhóm thuần tập phát triển, Z6 đạt được giá trị C trung bình là 0,909 vào 2 năm sau khi thăm khám cơ bản, trong khi phương trình nguy cơ Tangri (T4) 4 biến số đạt được giá trị C trung bình là 0,855, theo các nhà nghiên cứu báo cáo trên Tạp chí Bệnh thận Hoa Kỳ.
Trong nhóm xác nhận độc lập, điểm rủi ro Z6 đạt được giá trị C trung bình là 0,894, 0,921 và 0,891, so với 0,882, 0,913 và 0,862 với phương trình T4.
Tiến sĩ Peter Oefner, Viện Genomics, Regensberg, Đức, cùng các đồng nghiệp, việc xác định những bệnh nhân CKD có nguy cơ tiến triển thành ESRD cần KRT là rất quan trọng đưa đến quyết định lâm sàng và đăng ký thử nghiệm.
Một phương trình nguy cơ Z6 thấy sự phân biệt tốt của bệnh nhân CKD có nguy cơ tiến triển đến điều trị thay thế thận cả trong nhóm phát triển và trong 3 nhóm xác nhận độc lập.
Các nhà nghiên cứu cảnh báo phương trình nguy cơ Z6 chỉ được bắt nguồn và xác nhận trong nhóm thuần tập người châu Âu da trắng và độ chính xác của công cụ nên được kiểm tra ở các quần thể bệnh nhân đa dạng hơn.
Các nhà nghiên cứu thừa nhận có thể cải thiện bằng cách xem xét các biến bổ sung, chẳng hạn như các dấu ấn sinh học mới nổi liên quan đến tổn thương ống thận, viêm và xơ hóa.
Việc xem xét riêng biệt các bệnh thận do các nguyên nhân khác nhau cũng có thể cải thiện hiệu suất của mô hình rủi ro.
Tiến sĩ Ankur Shah, Khoa Bệnh thận và Tăng huyết áp, Trường Y Warren Alpert, Đại học Brown, Providence, Rhode Island, trong thực hành lâm sàng, nghiên cứu này có thể được sử dụng xác định những bệnh nhân mà nguồn lực nên được nhắm mục tiêu hoặc những người có thể được chỉ định theo dõi kỹ hơn.
Những bệnh nhân có nguy cơ tiến triển thành suy thận cao hơn cũng có thể được giáo dục sớm hơn các các liệu pháp lọc máu.
Trong dân số được nghiên cứu, phương trình này sẽ là 1 công cụ hỗ trợ hữu ích phương trình nguy cơ suy thận thường được sử dụng bởi Tangri cùng cộng sự.
Phương trình này cũng hạn chế bởi nhu cầu đo cystatin-c trong huyết thanh, 1 dấu ấn sinh học của bệnh thận được phổ biến rộng rãi, nhưng không thường xuyên được sử dụng trong thực hành lâm sàng thông thường.
Tên bài:
Building a Better Predictive Model for Progression to Kidney Failure
By Megan Brooks
July 21, 2021
Medscape.com