Hướng dẫn này nêu lên PPI là phương pháp điều trị y tế hiệu quả nhất đối với GERD.
*****
Lần đầu tiên kể từ năm 2013, American College of Gastroenterology (ACG) ban hành các khuyến cáo cập nhật dựa trên bằng chứng và hướng dẫn thực hành đánh giá và quản lý bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD), gồm quản lý bằng thuốc, lối sống, phẫu thuật và nội soi.
Trong 8 năm qua, sự hiểu biết về các biểu hiện đa dạng của GERD, những cải tiến trong xét nghiệm chẩn đoán và cách tiếp cận quản lý bệnh nhân phát triển, nghiên cứu liệu pháp ức chế bơm proton (PPI) và các tác dụng phụ tiềm ẩn.
Liệu pháp PPI vẫn là lựa chọn điều trị y tế đối với GERD, theo tác giả đầu tiên giáo sư Philip O. Katz, MD, Weill Cornell Medicine, Thành phố New York.
Bản cập nhật này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa đến chẩn đoán chính xác và khuyến cáo liệu pháp PPI khi bệnh nhân thực sự GERD và cẩn thận sử dụng liều thấp nhất có hiệu quả.
Hướng dẫn này được báo cáo trực tuyến ngày 22/11 trên báo American Journal of Gastroenterology.
Lợi ích lớn hơn rủi ro,
Hướng dẫn này nêu lên PPI là phương pháp điều trị y tế hiệu quả nhất đối với GERD.
Một số nghiên cứu xác định mối liên quan giữa việc sử dụng PPIs lâu dài và sự phát triển của 1 số tình trạng bất lợi, gồm nhiễm trùng đường ruột, viêm phổi, ung thư dạ dày, gãy xương liên quan đến loãng xương, bệnh thận mãn tính, thiếu hụt 1 số vitamin và khoáng chất, đau tim, đột quỵ, sa sút trí tuệ và tuổi tử vong sớm.
Theo các nghiên cứu chất lượng cao phát hiện PPI không làm tăng đáng kể nguy cơ bất kỳ tình trạng bệnh lý trên ngoại trừ nhiễm trùng đường ruột.
Bệnh nhân nên được thông báo điều trị GERD, báo trước những lợi ích của PPI cao hơn nhiều so với những rủi ro lý thuyết.
Một thử nghiệm PPI với bệnh nhân bất kỳ có các triệu chứng GERD điển hình và những người đáp ứng giảm dần với liều hiệu quả thấp nhất vẫn là bước đầu tiên trong GERD.
Hiện nay, không có tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán GERD, chẩn đoán dựa trên sự kết hợp của các triệu chứng, nội soi đánh giá niêm mạc thực quản, theo dõi trào ngược và đáp ứng với can thiệp điều trị, hướng dẫn này.
Đối với những bệnh nhân có triệu chứng ợ chua và nôn trớ cổ điển mà không có triệu chứng báo động, các tác giả khuyến cáo thử nghiệm 8 tuần dùng PPIs theo kinh nghiệm mỗi ngày 1 lần trước bữa ăn. Nếu bệnh nhân đáp ứng, hướng dẫn khuyến cáo nên ngừng thuốc.
Hướng dẫn khuyến cáo nội soi chẩn đoán sau khi ngừng PPI trong 2-4 tuần ở những bệnh nhân có các triệu chứng cổ điển không đáp ứng đầy đủ với thử nghiệm PPI theo kinh nghiệm 8 tuần hoặc ở những bệnh nhân có triệu chứng trở lại khi ngừng PPI.
Đối với những bệnh nhân đau ngực nhưng không ợ chua được đánh giá đầy đủ giúp loại trừ bệnh tim, hướng dẫn này khuyên nên làm xét nghiệm khách quan GERD (nội soi và / hoặc theo dõi trào ngược).
Việc sử dụng bari chỉ làm xét nghiệm chẩn đoán GERD không được khuyến khích.
Nội soi nên là xét nghiệm đầu tiên đánh giá những bệnh nhân có biểu hiện khó nuốt hoặc các triệu chứng báo động khác, chẳng hạn như sụt cân và xuất huyết tiêu hóa, cũng như những bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ có Barrett thực quản.
Đối với những bệnh nhân nghi ngờ chẩn đoán GERD nhưng không rõ ràng và nội soi không thấy bằng chứng khách quan của GERD, các hướng dẫn khuyên bạn nên theo dõi trào ngược ngoài liệu pháp giúp xác định chẩn đoán.
Hướng dẫn này khuyến cáo không nên theo dõi trào ngược ngoài liệu pháp chỉ như 1 xét nghiệm chẩn đoán GERD ở những bệnh nhân có bằng chứng nội soi ghi nhận viêm thực quản do trào ngược cấp C hoặc D ở Los Angeles (LA) hoặc ở những bệnh nhân có Barrett thực quản đoạn dài.
Áp suất độ phân giải cao chỉ dùng làm xét nghiệm chẩn đoán GERD cũng không được khuyến khích.
Quản lý y tế của GERD,
Các khuyến cáo quản lý y tế đối với GERD gồm giảm cân ở những bệnh nhân thừa cân hoặc béo phì, tránh ăn trong vòng 2-3 giờ trước khi đi ngủ, tránh các sản phẩm thuốc lá và thực phẩm gây kích thích và kê cao đầu giường đối với các triệu chứng ban đêm.
Điều trị bằng PPI được khuyến cáo thay vì thuốc đối kháng thụ thể histamine-2 giúp chữa lành và duy trì việc chữa lành bệnh viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan. Nên dùng PPI 30-60 phút trước bữa ăn thay vì trước khi đi ngủ.
Sử dụng liều PPI có hiệu quả thấp nhất được khuyến cáo và hợp lý nhưng phải được cá nhân hóa.
Một số nghiên cứu nêu lên có tới 75% người không đáp ứng PPI thực sự không có trào ngược. Họ ợ chua chức năng, không phải trào ngược và được điều trị mà không cần PPI.
Một lĩnh vực tranh cãi liên quan đến việc ngừng PPI đột ngột và khả năng tăng tiết acid phục hồi, dẫn đến gia tăng các triệu chứng trào ngược. Mặc dù điều này được tìm thấy ở những bệnh nhân kiểm soát khỏe mạnh, nhưng vẫn thiếu bằng chứng mạnh mẽ sự gia tăng các triệu chứng sau khi ngừng PPI đột ngột.
Đối với những bệnh nhân GERD mà không có viêm thực quản ăn mòn hoặc thực quản Barrett và các triệu chứng của họ giải quyết bằng liệu pháp PPI, hướng dẫn khuyến cáo nên cố gắng ngừng điều trị PPI hoặc chuyển sang liệu pháp theo yêu cầu, trong đó PPI chỉ được thực hiện khi các triệu chứng gặp phải và dừng lại khi họ cảm thấy nhẹ nhõm.
Đối với bệnh nhân viêm thực quản LA độ C hoặc D, khuyến cáo là điều trị PPI duy trì vô thời hạn hoặc phẫu thuật chống trào ngược.
Theo ACG, những bệnh nhân có viêm thực quản ăn mòn hoặc thực quản Barrett, những người thực sự cần PPI, nên điều trị PPI vô thời hạn, bởi vì lợi ích của PPI vượt xa những rủi ro lý thuyết.
Tên bài:
Updated ACG GERD Guideline Addresses Increased Scrutiny of PPI Therapy
Megan Brooks
December 03, 2021
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/964143