Kết quả từ 1 nghiên cứu đăng ký lớn ghi nhận những bệnh nhân trải qua xuất huyết nội não (ICH) nghiêm trọng có gần 10% nguy cơ phát triển chứng động kinh hoặc trạng thái động kinh trong năm đầu tiên sau sự kiện này. Nguy cơ tương tự là 8% đối với những bệnh nhân đột quỵ do thiếu máu cục bộ cấp tính nặng (AIS) và 5% đối với những người ICH nhẹ.
Nguy cơ động kinh sau đột quỵ là rất cao, đặc biệt là sau khi tụ máu và đột quỵ nặng, theo Mads Ebbesen, MD, Khoa Thần kinh, Viện Y học Lâm sàng, Đại học Aarhus, Aarhus, Đan Mạch.
Nguy cơ giảm đáng kể theo thời gian, nhưng nó vẫn tiếp tục tăng lên đáng kể, đặc biệt là đối với những người đột quỵ nghiêm trọng nhất.
Thời gian, loại, mức độ nghiêm trọng
Mối liên hệ giữa đột quỵ và động kinh được biết rõ, với nghiên cứu trước đây ghi nhận có đến 1/2 số trường hợp động kinh gặp sau 60 tuổi là do đột quỵ.
Đối với nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu điều tra thời gian của chứng động kinh sau đột quỵ và mối liên quan với loại và mức độ nghiêm trọng của đột quỵ.
Số liệu ghi nhận được từ Cơ quan đăng ký đột quỵ Đan Mạch, gồm thông tin loại đột quỵ (thiếu máu cục bộ hoặc xuất huyết) và mức độ nghiêm trọng, cũng như các yếu tố nguy cơ đột quỵ. Các nhà điều tra sử dụng Cơ quan đăng ký bệnh nhân quốc gia Đan Mạch.
Nghiên cứu gồm 88.119 cư dân Đan Mạch trưởng thành (53,4% nam giới) không có tiền sử động kinh và đột quỵ lần đầu từ ngày 1 / 4 / 2004 đến ngày 16/12/2016. Tuổi trung bình tại thời điểm đột quỵ là 69,8 tuổi.
Trong số những người tham gia này, 7661 có ICH, 79.157 AIS và 10.301 một cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA).
Kết quả chính là chẩn đoán động kinh hoặc động kinh trạng thái. Vì những cơn co giật ban đầu có thể là 1 phần của đột quỵ cấp tính, thời gian theo dõi bắt đầu sau 14 ngày kể từ khi cơn đột quỵ.
Các nhà nghiên cứu ước tính tỷ lệ bệnh động kinh tích lũy với mỗi 4 năm đầu tiên sau khi đột quỵ. Họ phân tầng điều này theo loại đột quỵ và mức độ nghiêm trọng bằng cách sử dụng Thang điểm đột quỵ Scandinavian. Điểm từ 0 đến 15 được định nghĩa là rất nghiêm trọng, 16 đến 30 là nghiêm trọng, 31 đến 45 là trung bình và 46 đến 58 là nhẹ.
Rủi ro ngay cả sau 4 năm
Kết quả 3483 bệnh nhân được chẩn đoán chứng động kinh trong 4 năm đầu tiên sau đột quỵ. Nguy cơ tuyệt đối đối với bệnh động kinh là cao nhất đối với bệnh nhân ICH. Nguy cơ trong năm đầu tiên sau ICH rất nặng là 9,8%.
Nguy cơ gần như bằng một nửa (với 5,1%) ở bệnh nhân ICH nhẹ. Nguy cơ là 7,8% đối với bệnh nhân AIS rất nặng và 1,3% đối với bệnh nhân AIS nhẹ.
Sau khi TIA, nguy cơ có bệnh động kinh trong năm đầu tiên là 0,81%. Một số nguy cơ này có thể là do các cơn đột quỵ tiếp theo.
Đối với tất cả các nhóm, nguy cơ giảm trong những năm tiếp theo sau đột quỵ, nhưng không biến mất hoàn toàn. Ví dụ, với máu tụ rất nặng, nguy cơ là 2,3% trong năm thứ 4.
Hầu hết các nghiên cứu trước đây mô tả sự khởi phát của bệnh động kinh sau đột quỵ chủ yếu trong vòng 2 năm đầu tiên, nguy cơ bệnh động kinh cao hơn ở những bệnh nhân trẻ tuổi đột quỵ.
Có thể sẹo trong não phát sinh hoạt động điện bất thường. Trong trường hợp đột quỵ xuất huyết, kích thích từ cặn máu có thể dẫn đến hoạt động điện bất thường. Co giật sau đột quỵ, nguy cơ cao đặc biệt là đột quỵ xuất huyết, trong vòng năm đầu tiên.
Tài liệu tham khảo
‘Very High’ Risk of Epilepsy 1 Year After Stroke
Pauline Anderson
December 13, 2021
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/964662