Theo 1 phân tích của 1 trung tâm, 1 tỷ lệ cao bệnh nhân được điều trị bằng thuốc bệnh nhãn giáp teprotumumab (Tepezza) báo cáo các dấu hiệu rối loạn chức năng thính giác sau 3-4 lần truyền, với gần ½ số bệnh nhân có các triệu chứng dai dẳng.
Mất thính lực là 1 biến cố bất lợi liên quan đến teprotumumab và cơ chế tác động, và khả năng hồi phục cần được nghiên cứu thêm.
Theo tác giả cao cấp MD Andrea Lora Kossler, Oculoplastic Surgery & Orbital Oncology, Đại học California.
Khuyến cáo bác sĩ lâm sàng nên hỏi tiền sử sử dụng thuốc gây độc trên tai trước đây hoặc các tình trạng y tế có thể khiến bệnh nhân có nguy cơ mất thính lực và nên đo thính lực cơ bản.
Tỷ lệ suy giảm thính lực có thể cao hơn so với trước đây
Teprotumumab, loại thuốc đầu tiên được cấp duyệt đặc biệt điều trị bệnh nhãn giáp, được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) báo cáo vào năm 2020 trước đây có liên quan đến rối loạn chức năng thính giác. Nhưng các báo cáo trước khi được cấp duyệt mô tả tác dụng phụ ở khoảng 10% bệnh nhân.
Các thành viên hội đồng FDA khuyến cáo cấp duyệt thuốc vào tháng 12/ 2019 cảm thấy khả năng mất thính giác là rất quan trọng và bệnh nhân nên được theo dõi 1 số loại.
Các tác giả tiến hành 1 nghiên cứu tiền cứu liên quan đến 27 bệnh nhân được điều trị từ tháng 2 / 2020 đến tháng 2 / 2021 với ít nhất 4 lần truyền teprotumumab trong bệnh nhãn giáp.
Thuốc thường được dùng 3 tuần 1 lần trong tổng số 8 lần truyền.
Ngoài việc kiểm tra mắt, bệnh nhân được kiểm tra các triệu chứng tai ở các tuần đầu tiên, 6, 12 và 24.
Trong số 27 bệnh nhân, có độ tuổi trung bình là 56,3 tuổi và 24 là phụ nữ, có tới 22 (81,5%) có sự phát triển của các triệu chứng chủ quan mới của tai sau khi bắt đầu điều trị.
Thời gian trung bình bắt đầu các triệu chứng thính giác là sau khi truyền trung bình 3,8 lần.
Sau thời gian theo dõi trung bình 8,3 tháng, chỉ 45% bệnh nhân khiếm thính được chữa khỏi hoàn toàn các triệu chứng, trong khi vấn đề vẫn tồn tại ở 55%.
Các đánh giá gồm xét nghiệm chức năng tuyến giáp, IGF-1, hormone tăng trưởng và A1c lúc ban đầu và trong quá trình điều trị, tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể các đặc điểm lâm sàng hoặc nhân khẩu học được quan sát thấy giữa những người có hoặc không có suy giảm thính lực.
Trong số 12 tai được kiểm tra bằng đo thính lực trước và sau điều trị, 7 tai thấy mất thính lực thần kinh giác quan đáp ứng các tiêu chuẩn độc tính trên tai, tuy nhiên, những thay đổi tổng thể đo thính lực được mô tả là khiêm tốn.
Các triệu chứng chi tiết, 13 bệnh nhân mô tả có đầy / bịt hoặc áp tai sau khi truyền trung bình 3,8 lần truyền, với 75% (n = 9) khỏi sau lần điều trị cuối cùng.
Với 12 bệnh nhân có ù tai hoặc ù tai sau khi truyền trung bình 3,9 lần truyền, với 66,7% (n = khỏi sau lần điều trị cuối cùng.
Có 11 bệnh nhân mất thính lực (nghe có giảm giác bóp nghẹt hoặc khả năng hiểu từ kém hơn) sau khi truyền trung bình 3,3 lần truyền, với 54,5% (n = 6) được giải quyết.
Và 7 bệnh nhân có bệnh vang tiếng bản thân sau khi truyền trung bình 2,7 lần truyền, với 83,3% (n = 5) khỏi sau lần điều trị cuối cùng.
Các bệnh nhân có lợi ích của thuốc vượt xa sự rối loạn của họ so với các triệu chứng thính giác.
Trong phần lớn các trường hợp, bệnh nhân không muốn báo cáo các triệu chứng thính giác hoặc kiểm tra vì sợ ngừng thuốc.
Có 4 bài báo ghi nhận 1 số độc tính đối với thính giác khi điều trị, và có thể nhiều hơn trước đó 10%.
Tên bài:
Hearing Dysfunction With New Thyroid Eye Drug Is Common, Persistent
Nancy A. Melville
October 08, 2021
Medscape.com
Link: https://www.medscape.com/viewarticle/960508