Một nghiên cứu mới thấy phụ nữ có các yếu tố nguy cơ có bệnh tim mạch trước khi mang thai (CVD) có kết quả thai kỳ ngày càng tồi tệ hơn, gồm tỷ lệ nhập viện chăm sóc đặc biệt (ICU) đối với bà mẹ và tử vong thai nhi.
Với mọi yếu tố nguy cơ tim mạch phụ thuộc và không quan trọng yếu tố nguy cơ đều có nguy cơ được phân loại và liên tục cao hơn đối với mỗi biến chứng thai kỳ, theo tác giả cao cấp Sadiya Khan, MD, Trường Y khoa Feinberg, Đại học Northwestern, Chicago.
Các nghiên cứu trước đây nêu sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ riêng lẻ như béo phì và tăng huyết áp trước khi mang thai có liên quan đến kết quả xấu hơn ở bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, việc xác định mối liên quan với tổng gánh nặng của các yếu tố nguy cơ CVD trước khi mang thai có thể giúp hướng dẫn các chiến lược phòng ngừa toàn diện không dựa vào bất kỳ các yếu tố nguy cơ.
Kết quả được báo cáp trực tuyến ngày 20/ 7 trên Tạp chí Tim mạch Dự phòng Châu Âu.
Các nhà nghiên cứu ghi nhận 18.646.512 ca mang thai bằng cách sử dụng số liệu của bà mẹ và thai nhi được lấy từ Trung tâm Thống kê Y tế Quốc gia Hoa Kỳ và tổng hợp số liệu ở cấp độ cá nhân từ các lần sinh đối với phụ nữ 15-44 tuổi (trung bình là 28,6 tuổi) từ năm 2014 đến 2018.
Phụ nữ được phân loại dựa trên cơ sở có 0 đến 4 yếu tố nguy cơ CVD trước khi mang thai: tăng huyết áp, đái tháo đường, hút thuốc tự báo cáo và BMI dưới 18,5 kg / m2 hoặc lớn hơn 24,9 kg / m2.
Tất cả các phân tích đều được điều chỉnh theo tuổi mẹ khi sinh, chủng tộc / dân tộc, trình độ học vấn, nhận chăm sóc trước khi sinh, số lần sinh và số lần sinh.
Hơn 60% phụ nữ có 1 hoặc nhiều yếu tố nguy cơ CVD, với 52,5% có 1, 7,3% 2, 0,3% 3 và 0,02% 4.
Mối liên quan giữa các yếu tố nguy cơ CVD và tất cả các kết quả bất lợi khi mang thai phụ thuộc vào liều lượng.
Ví dụ, so với những phụ nữ không có yếu tố nguy cơ CVD trước khi mang thai, tỷ lệ nguy cơ (KTC 95%) khi nhập viện ICU của bà mẹ là:
- + 1,12 (1,09 – 1,15) cho 1 yếu tố rủi ro
- + 1,86 (1,78 – 1,94) đối với 2 yếu tố nguy cơ
- + 4,24 (3,85 – 4,68) cho 3 yếu tố nguy cơ
- + 5,79 (4,07 – 8,23) đối với 4 yếu tố nguy cơ
So với phụ nữ không có các yếu tố nguy cơ CVD trước khi mang thai, phụ nữ có cả 4 yếu tố nguy cơ có nguy cơ tất cả các kết cục bất lợi cao hơn đáng kể:
+ Rủi ro cao hơn 5,8 lần đối với việc nhập học ICU
+ Nguy cơ sinh non cao gấp 3,9 lần
+ Nguy cơ sinh con nhẹ cân cao gấp 2,8 lần
+ Nguy cơ tử vong thai nhi cao gấp 8,7 lần
Kết quả tương tự cũng được quan sát trong 1 phân tích trên những phụ nữ có con đầu lòng.
Chăm sóc sức khỏe thai kỳ và trước khi sinh bắt đầu trước 3 tháng đầu thai kì. Đây là thách thức khi mang thai ngoài kế hoạch nhưng nó nói lên cuộc trò chuyện lớn hơn, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, về việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe giá cả phải chăng cho thanh niên.
Nieca Goldberg, MD, Trung tâm Y tế Joan H. Tisch tại Trung tâm Y tế NYU Langone, sự gia tăng các yếu tố nguy cơ và giảm nhận thức về nguy cơ tim mạch cá nhân, đặc biệt là ở nhóm tuổi cụ thể này. Phụ nữ trẻ hơn có thể không tin họ có thể có nguy cơ có bệnh tim mạch.
Nhiều yếu tố bên ngoài có thể khiến 1 số phụ nữ có nguy cơ cao hơn không được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc cần thiết.
So với những phụ nữ không có yếu tố nguy cơ CVD, nghiên cứu thấy trung bình những phụ nữ có 1 hoặc nhiều yếu tố nguy cơ có:
+ Trình độ học vấn thấp hơn (79,5% – 85,3% so với 88,7% tốt nghiệp trung học phổ thông)
+ Khả năng được chăm sóc trước khi sinh thấp hơn (97,8% – 98,5% so với 98,7%)
+ Tỷ lệ đa nhân cao hơn (64,4% – 69,3% so với 56,9%)
+ Tỷ lệ sẩy thai tự phát hoặc sảy thai trước đó cao hơn (27,4% – 46,0% so với 23,4%)
Cách các yếu tố nguy cơ CVD trước khi mang thai ảnh hưởng đến các nhân khẩu học bệnh nhân khác nhau giải quyết sự bất bình đẳng sức khỏe.
Có sự chênh lệch đáng kể về gánh nặng các yếu tố nguy cơ tim mạch, cũng như khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc.
Và đó có thể là những yếu tố góp phần tạo nên sự chênh lệch đáng kể quan sát được với tỷ lệ có bệnh và tử vong của bà mẹ, nơi phụ nữ Mỹ gốc Phi và bản địa nhiều khả năng không gặp phải những biến chứng nặng mà còn có thể gây tử vong.
Điều quan trọng là phải xác định rõ hơn các nguyên nhân gốc rễ của sự chênh lệch các yếu tố nguy cơ tim mạch này có thể góp phần làm tăng gánh nặng bệnh tật và tử vong của bà mẹ.
Cả Khan cùng Goldberg đều nhấn mạnh chăm sóc sức khỏe cộng đồng phải được ưu tiên hàng đầu.
Đánh giá toàn diện tim mạch trước khi mang thai nên là tiêu chuẩn và hiện tại thì không. Trong tương lai, nên có 1 cách tiếp cận có tổ chức, hợp tác giữa các bác sĩ tim mạch và cộng đồng bác sĩ sản phụ khoa đánh giá các phụ nữ trẻ với các yếu tố nguy cơ.
Tên bài:
Women’s Heart Health Tied to Multiple Pregnancy Complications
Anna Goshua
July 26, 2021
Medscape.com